Tất cả chuyên mục
Thứ Năm, 02/05/2024 10:16 (GMT +7)
Bài 2: Đột phá từ ngành "nóng" nhất
Thứ 4, 17/12/2014 | 07:54:31 [GMT +7] A A
Với tổng số 20.537 giáo viên (vượt 1.314 chỉ tiêu so với số được giao) và chiếm 30% tổng chi ngân sách hàng năm của tỉnh, ngành giáo dục Quảng Ninh chính là ngành “nóng” nhất trong yêu cầu tinh giản bộ máy, biên chế trong nhiều năm qua. Phải đến khi có Đề án 25, việc “cắt gọt” bộ máy mới được ngành giáo dục thực hiện một cách triệt để. Đặc biệt, ngay từ khi đề án còn đang trong quá trình hoàn thiện và phê duyệt, các đơn vị trực thuộc ngành đã sắp xếp, tinh giản đội ngũ. Nửa năm học trôi qua cho thấy việc thực hiện tinh giản này thực sự đem lại cho ngành giáo dục những hiệu quả kép.
Điểm trường Tềnh Pò sau khi gộp về điểm trường chính nay được sửa chữa cho cấp học mầm non. |
Lan toả ước mơ học cao, học rộng
Chúng tôi đến điểm trường chính của Trường Tiểu học Phong Dụ I (huyện Tiên Yên) giờ nghỉ trưa vừa kết thúc. Trong khu vực bán trú của trường, các em học sinh đang cất chăn, gối để chuẩn bị bước vào giờ học chiều. Nhìn các em lũn cũn gấp những tấm chăn cho gọn gàng, cô giáo trông trưa vui vẻ “khoe”: “Các em mới ở bán trú được hơn 3 tháng mà nề nếp và tự lập lắm. Ý thức hơn hẳn các bạn khác trong giữ gìn vệ sinh, trong học tập...”. Từ đầu năm học 2014-2015, Trường Tiểu học Phong Dụ 1 (Tiên Yên) đã bắt tay vào việc sắp xếp lại các lớp học để từ đó tinh giản bộ máy, biên chế của đơn vị. Trước đây, nhà trường có 1 điểm trường chính ở thôn Hợp Thành và 4 điểm phụ ở các thôn: Văn Mây, Khe Vè, Đốc Phẹ, Tềnh Pò. Đến nay, 5 điểm này được thu gọn còn 2. Số học sinh nhà xa, không về trưa chỉ có hơn 30 em được nhà trường bố trí bán trú ở 2 địa điểm là Hợp Thành và Văn Mây. Ban đầu, các thầy cô của nhà trường cũng lo các em còn nhỏ, chưa tiếp cận với việc bán trú nên sẽ khó khăn trong việc dỗ dành, hướng dẫn các em. Không ngờ chỉ sau vài tuần, việc ăn, học bán trú đã trở thành nề nếp, các em hào hứng và nhanh chóng bắt nhịp. Tỉ tê trò chuyện, chúng tôi được các em chia sẻ: Học bán trú thích hơn vì được ăn cơm ngon, được chơi với các bạn, được đọc nhiều truyện và được cả... đắp chăn có chú mèo Hello Kitty... Còn các cô thì khẳng định, được học bán trú, các em thích học hơn, độ chuyên cần tốt hơn và sự hoà đồng cũng tốt hơn trước kia.
Học sinh bán trú ở Trường Tiểu học Phong Dụ 1 tự giác thu dọn chăn gối gọn gàng sau giờ nghỉ trưa. |
Cô giáo Nguyễn Thuý Phượng, Hiệu phó Trường Tiểu học Phong Dụ 1 cho biết: “Thực hiện Đề án 25, trường đã dồn ghép 4 điểm trường lại. Bước đầu, việc làm này đã mang lại rất nhiều lợi ích. Trong đó, 17 giáo viên dôi dư được huyện bố trí dạy ở các trường khác còn thiếu giáo viên, qua đó góp phần khắc phục tình trạng thừa - thiếu giáo viên cục bộ trên địa bàn huyện. Trước đây, nhà trường phải bố trí đủ số giáo viên đứng lớp từ khối 1 đến khối 5 cho các điểm trường, trong khi có lớp chỉ có 5-6 học sinh nên rất lãng phí về nhân lực. Đấy là chưa kể việc đầu tư trang thiết bị dạy và học cũng rất lãng phí, không hiệu quả. Hiện nay, việc đi lại rất thuận tiện, đường từ các thôn, bản đến điểm trường chính đều đã được bê tông hoá, chỉ 15-20 phút đi xe máy là đưa được con đến lớp rồi, nếu đi bộ em nào nhà xa nhất cũng chỉ mất chừng hơn 30 phút là đến lớp nên bà con rất ủng hộ chủ trương dồn điểm trường này”.
Chúng tôi đã từng đến các điểm trường ở các thôn khe, bản ở các huyện miền núi Tiên Yên, Ba Chẽ, Bình Liêu, Hoành Bồ... đã từng chứng kiến những giờ học chay của cô và trò, những lớp học một cô một trò, những phòng học được dựng tạm bằng tre nứa gió lùa tứ phía, sau giờ học của cả cô và trò là những bó củi được kiếm vội trên rừng... Từ thực tế đã quá bất cập này nên chủ trương dồn trường, điểm trường, lớp học ngay lập tức nhận được sự đồng tình, hưởng ứng rất mạnh mẽ từ các giáo viên, người dân trên địa bàn. Hiệu quả kép đem lại không chỉ ở Trường Tiểu học Phong Dụ 1, mà hầu hết các trường học trên địa bàn miền núi của các huyện Tiên Yên, Ba Chẽ, Bình Liêu, Đầm Hà, Hải Hà, Hoành Bồ đều đã rất rõ. Bộ máy được tinh gọn hiệu quả, chất lượng dạy và học được nâng cao, đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện của ngành giáo dục. Và điều quan trọng đó là trẻ em vùng sâu, vùng xa được tiếp cận với các trang thiết bị dạy và học tiên tiến, hiện đại, tạo sự tự tin, khát vọng được học hỏi, được giao lưu, môi trường học tập chuyên nghiệp, hiện đại nâng cánh ước mơ cho các em về những chân trời kiến thức, về cuộc sống mới tốt đẹp hơn, đủ đầy hơn, văn minh hơn. Chính khát vọng đó của các em sẽ lan truyền sang gia đình, bố mẹ, đến cộng đồng tạo động lực phấn đấu, phát triển chung của khu vực này.
Đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện, toàn ngành
Theo thống kê toàn tỉnh hiện có 639 trường từ mầm non đến THPT. Có 1.449 điểm trường phủ rộng đến các thôn, bản, từ cấp học mầm non đến trung học cơ sở thuộc hệ công lập, gấp 3,05 lần số trường chính. Bất cập lớn nhất đối với ngành giáo dục - đào tạo ở Quảng Ninh nằm ở hệ thống các trường, điểm trường thuộc huyện. Do đặc thù địa bàn của tỉnh miền núi, biên giới, hải đảo, trước đây do điều kiện giao thông đi lại khó khăn nên các điểm trường lẻ nhiều, gần gấp 3 lần số trường chính. Cũng do đặc thù địa hình, yêu cầu xoá mù chữ trong giai đoạn trước nên nhiều điểm trường được hình thành quá gần nhau và gần với điểm trường chính. Một số điểm trường có quy mô nhỏ, số lượng học sinh ít, cơ sở vật chất nghèo nàn trong khi vẫn phải đảm bảo định mức biên chế giáo viên/đầu lớp học và yêu cầu thiết yếu theo quy định của một trường học (thư viện, y tế, văn thư, thủ quỹ...). Nhiều điểm trường gần các trạm y tế xã nhưng vẫn có nhân viên y tế học đường, dẫn đến sự lãng phí, không hiệu quả. Đó là chưa kể sự chênh lệch rất lớn giữa chi phí tiền lương giáo viên tính trên đầu học sinh giữa khu vực núi cao, hải đảo với khu vực còn lại (chưa kể chi phí đầu tư cơ sở vật chất). Như khu vực hải đảo, núi cao lên tới 180 triệu đồng/giáo viên/năm, trong khi thành thị cao nhất là 120 triệu đồng/giáo viên/năm. Tỷ lệ học sinh/giáo viên khu vực miền núi, hải đảo chỉ từ 4-12 học sinh/giáo viên nhưng khu vực thành phố, thị xã thì từ 17-26 học sinh/giáo viên.
Giờ học của các em học sinh điểm trường Văn Mây (Trường Tiểu học Phong Dụ 1, Tiên Yên). |
Để khắc phục những bất cập này, theo Đề án tinh giản bộ máy, biên chế của ngành giáo dục và các địa phương thì phương án dồn trường, dồn điểm trường và dồn lớp học được coi là tối ưu nhất. Theo đó, từ năm 2014-2015 thực hiện ghép học sinh cùng khối lớp giữa các điểm trường lẻ về học tại trường chính và tổ chức bán trú; ghép học sinh cùng khối lớp giữa các điểm trường lẻ về học tại trường chính và không tổ chức bán trú; ghép lớp cùng khối giữa các điểm trường lẻ về học tại trường chính và ở nội trú; hình thành điểm trường vệ tinh (cụm trường); ghép lớp khác khối trong cùng điểm trường thành lớp ghép; ghép học sinh cùng khối lớp giữa các trường; ghép học sinh ở 2 độ tuổi khác nhau học cùng một trình độ và ghép các lớp cùng khối trong cùng một điểm trường. Cách này không chỉ giúp tinh giản được số giáo viên, cán bộ, nhân viên biên chế cho ngành giáo dục, làm tăng sĩ số học sinh/lớp mà đây chính là một giải pháp hữu hiệu để các trường khu vực miền núi có thể thực hiện được đổi mới toàn diện, tạo điều kiện để học sinh được giao lưu, thi đua học tập, được thụ hưởng các điều kiện giáo dục tốt hơn.
Theo tính toán của Sở Giáo dục và Đào tạo thực hiện Đề án 25 riêng các đơn vị trực thuộc Sở sẽ tiết kiệm được trên 15 tỷ đồng/năm. Phần kinh phí tiết kiệm được dự kiến sẽ tập trung về ngành quản lý để đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị dạy học, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ theo hướng hiện đại hoá để hiện đại hoá phương tiện, thiết bị dạy học, bồi dưỡng nâng cao năng lực, nghiệp vụ cho cán bộ giáo viên, thu hút nhân tài, hỗ trợ kinh phí đào tạo lại, hỗ trợ kinh phí đi lại trong việc điều động luân chuyển giáo viên để đảm bảo cơ cấu môn học giữa các đơn vị với nhau; trợ cấp cho đối tượng nghỉ hưu trước tuổi và đối tượng thôi việc do không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Còn đối với các phòng giáo dục cấp huyện trung bình sẽ tiết kiệm được từ 20-30 tỷ đồng/năm. Và phần kinh phí tiết kiệm được cũng sẽ dành để tái đầu tư cho ngành, nâng cao đời sống, thu nhập cho giáo viên và đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện của ngành giáo dục.
Lan Hương - Thuỳ Linh
Bài 3: “Chìa khoá” tinh giản ngành y tế
[links()] Bài 1: Giải bài toán những xã, phường "lạm phát" cán bộ
Liên kết website
Ý kiến ()