Tất cả chuyên mục

LTS: Như bạn đọc đã biết, QNCT, số ra ngày 18-4-2010, có đăng bài “Sinh thời Trần Quốc Tảng có ở Cửa Ông như nhiều người vẫn nghĩ hay không?” của nhà thơ Trần Nhuận Minh.
Theo đó, tác giả cho rằng có nhiều cơ sở sử liệu để chứng minh rằng hiểu như thế là chưa đúng, Trần Quốc Tảng chưa từng ở Cửa Ông, đền thờ Cửa Ông ban đầu cũng không phải lập nên để thờ Trần Quốc Tảng… Sau đó, QNCT đã nhận được bài viết của ông Nguyễn Thanh Sĩ phản bác ý kiến này (đăng trên QNCT, số ra ngày 16-5-2010)…
Chúng tôi cho rằng đây là một vấn đề khoa học đáng để trao đổi một cách nghiêm túc. Vì vậy, xin đăng bài trả lời của nhà thơ Trần Nhuận Minh (đầu đề do Tòa soạn đặt) và rất mong bạn đọc, nhất là những nhà nghiên cứu lịch sử có quan tâm đến vấn đề này, tham gia thảo luận nhằm làm cho sự việc được sáng tỏ… (Bài viết xin gửi theo địa chỉ: Ban QNCT, Báo Quảng Ninh, 71-Nguyễn Văn Cừ, TP Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; hoặc theo E-mail:qncuoituan@yahoo.com)...
1. Ngay đầu đề, ông Nguyễn Thanh Sĩ đã thiếu chính xác. Tôi không viết “thờ nhầm”. Ý tôi nói là thờ vọng, dù không viết ra. Tôi viết: “Trần Quốc Tảng không vì thế mà kém đi, thậm chí còn được tôn vinh thêm, ở cả những nơi ông chưa từng đặt chân đến”. Cũng như Đền thờ Trần Quốc Nghiễn ở bến Đoan, TP Hạ Long ngày nay, làm sao chứng minh được Trần Quốc Nghiễn đã “sinh ra hay lập chiến tích” ở đây, như ông nói. Tôi viết việc thờ Trần Quốc Tảng ở Cửa Ông là “hợp với đạo Trời, hợp với lòng Người”. Tôi là một nhà thơ, nhưng chạm vào những giá trị thiêng liêng hay khoa học, tôi tuyệt đối không “tùy tiện” như ông Nguyễn Thanh Sĩ nói.
2. Ông Nguyễn Thanh Sĩ viết: “Trần Quốc Tảng hai lần được Hưng Đạo vương và vua Trần cử ra Cửa Suốt trấn giữ và có thời gian ở Cửa Suốt”. Theo tôi, căn cứ của ông là không đủ độ tin cậy. Tôi biết, ông dựa vào Trần triều hiển thánh chính kinh tập biên (1910). Đây là sách thần tích, chỉ có ý nghĩa tham khảo, lại được viết mà theo tôi là trong ảnh hưởng của sai lầm từ Bùi Huy Bích ở thời Lê. Thần tích không phải là lịch sử. Một ví dụ vừa diễn ra: Vị Thái uý nhà Lý (mà tôi không tiện nêu tên) theo thần tích, ngọc phả, là người dâng kế dời đô cho vua Lý Thái Tổ, nên đã tổ chức kỷ niệm rất long trọng trong dịp 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Các nhà sử học nghi ngờ và tra vào quốc sử là bộ Đại Việt sử kí toàn thư (ĐVSKTT) thì vị Thái uý này có mặt ở thời sau, khi Lý Thái Tổ đã băng hà. Vì vậy, sử dụng thần tích, ngọc phả (hay câu đối) trong các vấn đề lịch sử, phải rất thận trọng. Ông viết: “Lịch sử đã chứng minh”… nhưng không dẫn ra bất cứ nguồn lịch sử đáng tin cậy nào để chứng minh. Sách nào? Trang bao nhiêu? Ai viết? Viết ở thời nào? Xuất bản bao giờ? Có đủ độ tin cậy không? Những tư liệu ông dẫn về Cửa Suốt Cẩm Phả là tư liệu của thời Nguyễn, không phải ở thời Trần. Chúng ta đều biết, ngày 24-4-1884, nhà Nguyễn bán mỏ Cẩm Phả cho Pháp lấy 10 vạn đồng tiền Đông Dương và Trạm Hải quan này được thiết lập (hay được nâng cấp) mà ta biết ngày nay, rất có thể là từ 1884, để nhà Nguyễn thu thuế của Pháp. Theo tôi thì khoảng 730 năm trước, ở thời Trần, Trạm Hải quan này chưa có.
3. Ông Nguyễn Thanh Sĩ viết: “Một vùng chiến lược từ Cửa Suốt (tức Cửa Ông) ra miền biên giới Đông Bắc,... Trần Hưng Đạo và vua Trần giao cho võ tướng tài danh Trần Quốc Tảng” nhưng lại không nêu căn cứ vào nguồn sử liệu nào. Trong khi đó, ĐVSKTT, tập II, Nxb Khoa học xã hội, 1985, trang 58, dòng 11- 12 ghi: “...Khi ấy thuỷ quân Nguyên đánh vào Vân Đồn. Hưng Đạo vương giao hết công việc biên thuỳ cho phó tướng Vân Đồn là Nhân Huệ vương Khánh Dư”. Theo tôi hiểu, “giao hết” công việc biên thuỳ thì không chỉ có trên biển. Biên thuỳ Đông Bắc chủ yếu là trên bộ, hoặc một phần quan trọng là trên bộ. Chính vì căn cứ lịch sử không thể chối cãi này, cùng với đặc điểm chế độ phân quyền ở thời Trần, mà tôi viết: “Dải đất Hồng Gai, Cẩm Phả hiện nay ở thời Trần… do Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư quản lý từ năm 1282 đến năm 1339, sau khi Trần Quốc Tảng đã mất được 26 năm.” Nghĩa là khoảng thời gian đó, ở đây, không có sự hiện diện của Trần Quốc Tảng. Vậy Trần Quốc Tảng ở đâu? Tôi viết: “Do vậy, có thể hiểu: Trần Quốc Tảng có vương phủ ở một trong các địa danh trên..”, tức là một trong những nơi 4 anh em ông hội quân đánh quân Nguyên, theo sự điều khiển của cha ông, là các huyện thuộc Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang ngày nay - vì nhà Trần theo chế độ phân quyền (căn cứ vào trang 49, tập II, ĐVSKTT).
4. Ông Nguyễn Thanh Sĩ viết: Trần Quốc Tảng “vẫn dành thời gian đến vùng Đông Bắc để thị sát tình hình” là không có căn cứ. ĐVSKTT có ghi lại nhiều cuộc “thị sát tình hình” của ông, nhưng đều ở miền Trung, trong đó có lần ghi cả việc ông đến sách Sẩm Tớ, tên một làng rất nhỏ, người thiểu số, giống như xóm của ta hiện nay, ở tận biên giới Việt - Lào. Vậy thì nếu ông có đi “thị sát biên giới Đông Bắc” liên quan tới chiến lược phòng thủ, chống kẻ thù trực tiếp lúc bấy giờ, ĐVSKTT không thể không ghi.
Theo ông Nguyễn Thanh Sĩ: “Trần Quốc Tảng 2 lần được thưởng công sau trận Bạch Đằng” là không có căn cứ. Lần 1, ông viết: “Chiến dịch Bạch Đằng kết thúc, Hưng Nhượng vương về triều báo công, được vua Trần khen thưởng và phong làm Suất Ti tuần An Bang, được cử ra Cửa Suốt tiếp tục trấn giữ”. Tôi nghĩ, chức vụ này quá nhỏ (theo Địa chí Quảng Ninh, xuất bản năm 2003, chỉ như chức Trạm trưởng Hải quan…) so với công tích và danh tiếng của ông, vị anh hùng Bạch Đằng, đồng thời là bố vợ vua và được phong Đại vương vài năm sau. Lần 2, ông viết: “Trong kì bình công khen thưởng của vua Trần vào cuối năm 1288, Trần Quốc Tảng được phong Tiết độ sứ” Ông viết bình công khen thưởng sau đại thắng Bạch Đằng những 2 lần và lần 2 “vào cuối năm 1288” là sai. Thực ra chỉ có 1 lần. ĐVSKTT, trang 62, chép: “Mùa hạ, tháng 4, định công dẹp giặc Nguyên. Tiến phong Hưng Đạo vương làm Đại vương, Hưng Vũ vương làm Khai Quốc công, Hưng Nhượng vương là Tiết độ sứ”. Không ghi Tiết độ sứ ở đâu (như Trần Tung là Tiết độ sứ Thái Bình chẳng hạn - theo Trần Nhân Tông trong Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục). Và dòng trên ghi thời gian phong thưởng là “Kỉ Sửu, Trùng Hưng năm thứ 5 (1289)”. Như vậy là tròn 1 năm (4/1288 - 4/1289) và chỉ phong 1 lần vào năm 1289.
5. Ông Nguyễn Thanh Sĩ viết: “Khi cánh quân của Trình Bằng Phi đến Đông Triều, thì bị quân Trần Quốc Tảng chặn đánh quyết liệt buộc phải quay lui về Vạn Kiếp” là không có căn cứ. ĐVSKTT không ghi điều đó. Và trong cuốn Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỉ XIII của Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm, Nxb Khoa học xã hội, 1988. (Hai tác giả còn dẫn cả Nguyên sử, An Nam truyện - Bản kỉ (của chính tên tướng giặc thua trận này cùng với Trình Bằng Phi là Ta Tru), An Nam chí lược, (của sử gia giặc đi theo quân Nguyên) khi đề cập sự kiện này đã mô tả rất kĩ lưỡng trận đánh Trình Bằng Phi và Ta Tru ở Đông Triều. Theo đó, trong đánh trận này, chỉ có một viên tướng nhà Trần là Hưng Ninh vương Trần Tung (chứ không có Trần Quốc Tảng). Đến đây, ông Thanh Sĩ lại có sai lầm giống như Bồi tụng Bùi Huy Bích ở thời Lê, là nhầm lẫn Trần Tung với Trần Quốc Tảng, hoặc đồng nhất hai bác cháu ruột là một người chăng?
6. Ông Nguyễn Thanh Sĩ viết: “Xã Trắc Châu, huyện Thanh Lâm nay là phường Cẩm Phú, thị xã Cẩm Phả” là sai. Xã Trắc Châu là nơi Trần Quốc Tảng lập đồn trú, rồi dẫn quân đánh thẳng xuống sông Bạch Đằng. Trước hết, từ xưa đến nay, phường Cẩm Phú, Cẩm Phả, chưa bao giờ là xã Trắc Châu, huyện Thanh Lâm. Xin mở sách Tên làng xã Việt Nam thế kỉ XIX, (trở về trước), biên soạn năm 1810, hoàn thành năm 1819 (mà bản chữ Hán là Các tổng trấn xã danh bị lãm), Nxb Khoa học, xã hội, 1981, của Viện Hán Nôm, quyển sách có lẽ là duy nhất ghi chép rất tỉ mỉ tên các làng xã Việt Nam, thì rõ: huyện Thanh Lâm là phần đất phía nam của huyện Nam Sách hiện nay, trong đó có xã Trắc Châu, thuộc tổng Trắc Châu, trấn Hải Dương. Còn ở Quảng Ninh, phần Trấn An Quảng, được chú thích là năm 1823 đổi thành trấn Quảng Yên (tức tỉnh Quảng Ninh ngày nay). An Quảng có 1 phủ là Hải Đông (Hải Đông đã tắt khói lang bay - Thơ Lê Thánh Tông), 3 huyện, 3 châu, 8 tổng 32 làng xã vạn chài, có liệt kê từng tên một, trong đó, châu Vân Đồn chỉ có 2 xã, là xã Quan Lạn và xã Minh Châu. Không có tên mảnh đất sau này là Cẩm Phả. Nếu ta biết cách đây khoảng 150 năm, người từ Lán Đạo bây giờ ra núi Bài Thơ còn phải đi bằng thuyền và cách đây khoảng 20 năm, vùng đô thị Vựng Đâng, Cọc 5, Hùng Thắng (TP Hạ Long hiện nay) còn là bãi sú vẹt và vùng biển nông, thì hẳn có thể đoán chắc, cách đây khoảng 730 năm, vùng Cẩm Phả - Hòn Gai ngày nay còn là vùng biển đảo hoang vu, không có người ở. Vậy thì lấy đâu ra quân, lập đồn trú, rồi “đóng đại bản doanh” ở chỗ nào? Hơn nữa trận Bạch Đằng, 1288, ta đánh xuôi theo nước chảy, không có chuyện đánh ngược nước, từ bên ngoài hàng cọc, tức là từ cửa biển đánh vào. Sách Trần triều hiển thánh (1900) mà ông Nguyễn Thanh Sĩ dẫn, cũng ghi rõ: Trần Quốc Tảng “lập đồn ở xã Trắc Châu, huyện Thanh Lâm, trải qua 3 ngày đêm, đánh thẳng vào trại giặc ở sông Bạch Đằng, chỉ một khắc là thắng”. Trắc Châu nay thuộc huyện Nam Sách, Hải Dương.
7. Ông Nguyễn Thanh Sĩ viết: “Theo sách Đại Nam nhất thống chí, bộ sử chính thống dưới triều Nguyễn” là sai. Bộ sử chính thống của triều Nguyễn là Việt sử thông giám cương mục. Đại Nam nhất thống chí là sách địa chí, biên soạn từ năm 1875, hoàn thành năm 1883, thống kê tư liệu khá đầy đủ từng tỉnh, từng huyện, dài rộng bao nhiêu, hình thế đất đai phong thuỷ, khí hậu, hộ khẩu, phong tục ma chay cưới xin, thành quách, sông suối, đường sá, đền chùa, miếu mạo, nhà trạm, chợ búa, cầu cống, trường học, đò cầu, đê đập, nông thổ sản, động thực vật, kể cả các món ăn đặc sản như tôm cua ốc ếch, các sản phẩm từng vùng như thuốc lào, thuốc phiện, mắm cáy, mắm rươi v.v... Ghi hàng ngàn tư liệu như thế mà trong chương về Tỉnh Quảng Yên, mục đền chùa miếu mạo, ở vùng Cẩm Phả ngày nay, trong đó có Cửa Ông, không ghi nơi nào thờ Trần Quốc Tảng cả, chỉ có 1 miếu là Miếu Hoàng Tiết chế, (Tập 4, Nxb Khoa học xã hội, 1971, trang 45), trong đó chỉ thờ có 1 người là Hoàng Cần, theo truyền thuyết là người xã Hải Lãng, Tiên Yên, ở thời Trần. Ông Thanh Sĩ viết: “Hoàng Cần không phải là danh tướng thời Trần” mà “ở thời Lê mạt”, tức cuối Lê, thì tôi khuyên ông đọc lại một dòng trong mục “Miếu Hoàng tiết chế” mà ông vừa dẫn ra, ở bộ sách mà ông xác định là “chính sử”. Tôi nói vậy để khẳng định: Ít nhất đến năm 1883, ở Cẩm Phả, Cửa Ông không có nơi nào thờ Trần Quốc Tảng. Nếu có, sách thống kê vô vàn tư liệu chi tiết ở tỉnh Quảng Yên không thể bỏ qua việc thờ một vị Đại vương lừng lẫy chiến công, lại là bố vợ vua?
8. Ông Nguyễn Thanh Sĩ viết: “Trần Quốc Tảng mất năm 1311” là sai. ĐVSKTT, trang 98, dòng 21, ghi: “Hưng Nhượng vương Quốc Tảng mất”. Tra ở dòng trên, ghi: “Quí Sửu (Long Hưng) năm thứ 21 (1313)”. Xin nói thêm, cái phiến đá và cái mũ đá, khi viết về cái chết của Trần Quốc Tảng mà ông Thanh Sĩ ghi trong bài, theo sách Truyện cổ Nam Sách, Nxb Văn hoá dân tộc, 2000, trang 52-53, của Nguyễn Hữu Phách và Nguyễn Văn Đức, thuật lại theo Lê Mậu Cường, thì hiện còn ở cái giếng trong khu đền thờ Trần Quốc Tảng ở xã Trắc Châu, huyện Thanh Lâm, “đo phiến đá thấy dài 6 thước 4 tấc, rộng 2 thước 3 tấc”…
9. Ông Thanh Sỹ nói Đền Cửa Ông là ngôi đền “duy nhất ở nước ta thờ Trần Quốc Tảng” là sai. Tôi biết ít nhất còn 2 nơi nữa, xin được bổ sung cho ông, một là Đến thờ Trần Quốc Tảng ở xã Trắc Châu, huyện Thanh Lâm, nơi ông lập đồn trú (nay thuộc Nam Sách, Hải Dương). Hai là Văn Miếu (hoặc Văn Chỉ Linh Khê) thuộc thôn Linh Khê, xã Thanh Quang, huyện Nam Sách, gần nơi tổ chức Hội nghị Bình Than của nhà Trần tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1282).
10. Ông Nguyễn Thanh Sĩ viết: “Đền Cửa Ông có từ thời Trần” là không có căn cứ, như đã nói ở trên, và “Khởi thuỷ đền Cửa Ông thờ Trần Quốc Tảng”, nếu hiểu là từ khi xây mới, đầu thế kỉ XX thì đúng, nhưng trong lịch trình của đền từ trước đến đầu thế kỉ XX, thì sai. Sách Ngữ văn địa phương Quảng Ninh, Nxb Giáo dục Việt Nam, vừa in 12-2009, tập I, dạy chính thức trong nhà trường, trang 26, ghi nguyên văn: “…trước khi thờ Trần Quốc Tảng, đền Cửa Ông là miếu thờ Hoàng Cần, người địa phương…” đó thôi.
11. Về việc trùng tu, xây dựng lại các đền, để thờ các vị tiền bối, có nâng cấp, có cái phá cũ xây mới, to đẹp khang trang hơn, xứng tầm hơn là việc thường tình của ngành văn hoá. Việc điều chỉnh các nhân thần cho phù hợp cũng là điều bình thường. Ông nói việc làm đó là “thất đức”, tôi e là hơi nặng với các đồng nghiệp của mình…
Cuối cùng tôi muốn nói, lịch sử bao giờ cũng ẩn chứa nhiều bí mật. Trên chặng đường tìm kiếm để tiếp cận với các giá trị khoa học, không ai dám nói là mình không có nhầm lẫn, thậm chí sai lầm. Và đó cũng là điều bình thường trong học thuật, kể cả ở những nhà khoa học lớn. Tuy nhiên, những gì mà ông Nguyễn Thanh Sĩ đã đề cập trong bài viết của mình, theo tôi là chưa đủ sức thuyết phục. Vậy nên xin nói lại để ông hiểu đúng hơn những gì tôi đã trình bày trong bài viết của mình đăng trên QNCT, số ra ngày 18-4-2010.
Sinh thời, Trần Quốc Tảng có ở Cửa Ông như nhiều người vẫn nghĩ hay không?
Ý kiến ()