Tất cả chuyên mục
Thứ Bảy, 27/04/2024 11:04 (GMT +7)
Xây dựng mỗi làng một sản phẩm: Để thực hiện thành công
Thứ 2, 28/01/2013 | 05:44:33 [GMT +7] A A
Trong chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM), tỉnh đặt mục tiêu đến năm 2015 sẽ có từ 40-60 sản phẩm địa phương được thương mại hoá, đáp ứng yêu cầu của quá trình xây dựng “Mỗi làng một sản phẩm”.
Với đặc điểm điều kiện tự nhiên đa dạng, có đầy đủ các vùng sinh thái như biển - đảo, duyên hải, đồng bằng, trung du, núi thấp và núi cao, lại có nhiều dân tộc cùng sinh sống, như Kinh, Dao, Hoa, Sán Chỉ, Sán Dìu... Quảng Ninh có nhiều sản vật và sản phẩm truyền thống, trong đó một số sản phẩm đã được biết đến và được bình chọn là một trong những món ăn đặc sắc Việt Nam. Từ các điều kiện hiện có, có thể dễ dàng nhận thấy mục tiêu xây dựng “Mỗi làng một sản phẩm” hoàn toàn có thể thực hiện.
Những con tàu vận tải đang được người dân làng nghề đóng tàu Hà An (TX Quảng Yên) hoàn thiện. |
Sản vật phong phú, đa dạng
Với 12 địa phương trên địa bàn có biển nên sản vật từ biển của Quảng Ninh không chỉ phong phú và còn mang tính đặc biệt hơn so với các tỉnh, thành phố khác trên cả nước cũng có biển như sá sùng, sứa biển, trai ngọc, tu hài. Rồi sản vật từ rừng có quế, hồi, ba kích tím, gừng gió ở Hoành Bồ, Ba Chẽ, Tiên Yên, Uông Bí… Các đặc sản ẩm thực, thường gắn liền với chỉ dẫn địa lý, như: Bún xào Ngán (Quảng Yên), Gà đồi, Bánh gật gù (Tiên Yên), Tu hài (Vân Đồn), Ruốc lỗ (Quảng Yên, Hoành Bồ, Hạ Long), Sá sùng (Vân Đồn, Cô Tô), Rượu ngán, Chả mực (Hạ Long), Rượu nếp ngâm (Hoành Bồ), Rượu mơ Yên Tử… Trong đó, gà đồi Tiên Yên và Chả mực Thoan (Hạ Long) đã được đưa vào danh sách 50 đặc sản nổi tiếng nhất Việt Nam và 50 sản phẩm đang được xây dựng thương hiệu ở tỉnh Quảng Ninh. Ngoài ra, còn có hàng trăm sản phẩm địa phương truyền thống khác thuộc các nhóm đồ ăn - lương thực - thực phẩm, đồ uống, đồ may mặc - thổ cẩm, đồ gia dụng - trang trí, đồ lưu niệm - thủ công mỹ nghệ, thuốc từ cây cỏ - dược liệu - hương liệu đang tồn tại trong các cộng đồng, chưa được thương mại hoá hoặc đã được thương mại hoá ở mức độ hẹp.
Theo kết quả điều tra, nghiên cứu của các cơ quan chuyên môn thì đặc điểm chung của các sản vật địa phương trên địa bàn tỉnh là sử dụng nguyên liệu địa phương, với công nghệ truyền thống và gắn liền với văn hoá vùng miền và tộc người. Các sản phẩm này có tiềm năng phát triển rất lớn do có lợi thế cạnh tranh, bởi chúng gắn liền với các yếu tố địa phương, như nguyên liệu là đặc sản địa phương, công nghệ truyền thống, du lịch địa phương, văn hoá tộc người địa phương...
Bức tranh tổng thể
Trên toàn tỉnh hiện có khoảng 2.500 cơ sở sản xuất, bảo quản, chế biến, kinh doanh sản phẩm thuộc lĩnh vực ngành nghề nông thôn với đầy đủ các nghề như xay xát gạo, mộc gia dụng, nề, sản xuất vật liệu xây dựng, nấm ăn và nguyên liệu, dệt thổ cẩm, đan lát mây tre, làm thuyền, mủng, rèn, cơ khí nhỏ, sửa chữa, dệt may, thêu ren, đóng mới sửa chữa tàu thuyền, điêu khắc than đá... Có khoảng 23.000 lao động (chiếm 7,4% lao động nông nghiệp nông thôn) đang hoạt động trong các cơ sở sản xuất ngành nghề nông thôn. Ngoài ra, toàn tỉnh có 4 làng nghề truyền thống đang hoạt động tập trung ở huyện Đông Triều và TX Quảng Yên, đó là: Làng nghề gốm sứ Vĩnh Hồng - thị trấn Mạo Khê, gốm sứ Đức Chính - xã Đức Chính (Đông Triều); đóng, sửa chữa tàu thuyền Hà An, đan thuyền, ngư cụ Nam Hoà (Quảng Yên). Các làng nghề này thu hút khoảng 14.900 lao động (chiếm 4,7% tổng số lao động nông thôn). Tuy nhiên, chưa có làng nghề nào được công nhận theo tiêu chí làng nghề do Bộ NN&PTNT.
Trong giai đoạn 2007-2010, tỉnh đã đầu tư xây dựng được 11 cụm cơ sở hạ tầng làng nghề, tiểu thủ công nghiệp, quy hoạch 5 vùng nguyên liệu ở Hoành Bồ, Vân Đồn, Cẩm Phả để phục vụ cho phát triển các làng nghề. Cùng với đó tỉnh đã có sự ưu đãi thu hút các doanh nghiệp hoạt động công nghiệp về vùng nông thôn để phát triển các ngành nghề mới, phát huy nghề truyền thống. Vì vậy, nhiều cơ sở sản xuất ngành nghề được xây dựng và phát triển. Cũng theo đánh giá của các nhà chuyên môn, dù không có nhiều làng nghề truyền thống nổi bật như các tỉnh, thành phố khác trong cả nước, nhưng ở Quảng Ninh cũng có nhiều làng nghề đã hình thành, tồn tại khá lâu và có sự đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. So với các địa phương khác, làng nghề ở Quảng Ninh là sự hội tụ, du nghề và rất mới. Đây là yếu tố thuận lợi để đổi mới phát triển nghề truyền thống theo hướng ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào tổ chức sản xuất, năng động trong tìm kiếm thị trường tiêu thụ.
Những rào cản cần vượt
Theo đồng chí Phan Văn Cần, Chi cục Trưởng Chi cục phát triển nông thôn (Sở NN&PTNT) thì, dù có lượng sản vật địa phương khá phong phú, đặc sắc nhưng vấn đề tồn tại chính với các sản phẩm truyền thống tại các cộng đồng trên địa bàn tỉnh là chưa thương mại hoá được và khó tiêu thụ. Các lý do trực tiếp dẫn đến điều này là do người dân chưa biết cách tổ chức sản xuất, phát triển sản phẩm và tiếp thị (mẫu mã, mạng lưới, thương hiệu); khả năng sáng tạo còn thấp, chất lượng sản phẩm không ổn định, sản phẩm không đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng; chưa có sự hỗ trợ một cách có hệ thống, trong khi các cộng đồng ở Việt Nam nói chung và ở Quảng Ninh nói riêng chưa quen với nền kinh tế thị trường và hội nhập.
Bên cạnh đó, một số sản phẩm đã được thương mại hoá thì việc bảo vệ, giữ gìn thương hiệu của sản phẩm, đảm bảo về vệ sinh an toàn thực phẩm, chống và ngăn chặn hàng giả, hàng nhái đối với các sản phẩm này là các khó khăn lớn. Điển hình như các trường hợp lấy gà, chả mực ở nơi khác đến, thậm chí cả gà thải loại của nước ngoài, nhưng lại được chào mời, giới thiệu là gà Tiên Yên, chả mực Hạ Long, làm ảnh hưởng đến uy tín, thương hiệu của sản phẩm. Việc phát triển, sản xuất các sản phẩm này hiện nay vẫn còn mang tính tự phát, quy mô nhỏ, chưa có sự liên kết chặt chẽ các yếu tố, tính bền vững không cao.
Riêng đối với việc phát triển các làng nghề truyền thống, trong những năm qua, phát triển ngành nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh chủ yếu là tự phát, quy mô nhỏ lẻ, chưa có định hướng sản xuất hàng hoá. Ngoài mặt hàng gốm sứ truyền thống của Đông Triều được xuất khẩu sang các nước Nga, Đức, các sản phẩm của nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh mới dừng lại ở mức tự sản, tự tiêu. Lao động ở các làng nghề truyền thống hầu như chưa được đào tạo để có thể tiếp nhận, ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất cũng như tổ chức quản lý sản xuất đạt hiệu quả cao và bền vững, nâng cao chất lượng, mẫu mã và tiếp thị sản phẩm. Việc phát triển ít chú ý đến tính hoàn thiện của sản phẩm mà dàn trải trong khái niệm rộng là “làng nghề”. Điều này dẫn đến thực tế là trong tỉnh không có các nghề cao cấp, tinh xảo đủ sức cạnh tranh với các tỉnh lân cận, mẫu mã cũng như giá thành sản phẩm cao.
Để hạn chế được những điểm yếu này, xây dựng thành công mỗi làng một sản phẩm, trước mắt phấn đấu đến năm 2015 toàn tỉnh có 40-60 sản phẩm được thương mại hoá. Theo đồng chí Trương Công Ngàn, Trưởng Ban Xây dựng NTM tỉnh, cần xây dựng hệ thống hỗ trợ phát triển sản phẩm truyền thống của cộng đồng; nâng cao hiểu biết, kỹ năng về sản phẩm và năng lực sáng tạo của cộng đồng phù hợp với nền kinh tế thị trường thông qua các chương trình huấn luyện bám sát bài toán đặt ra của thực tiễn của sản phẩm tại cộng đồng; nâng cao hiểu biết về thị trường cho đội ngũ cán bộ trong hệ thống phát triển nông nghiệp, nông thôn, như khuyến nông viên, chương trình nông thôn mới. Hỗ trợ cộng đồng một cách có hệ thống trong việc nâng cấp sản phẩm, thiết kế mẫu mã sản phẩm, tiêu chuẩn sản phẩm, quản trị kinh doanh, xúc tiến sản phẩm liên kết với các chương trình phát triển du lịch của tỉnh.
Ngọc Lan
Liên kết website
Ý kiến ()