Tất cả chuyên mục
Thứ Bảy, 27/04/2024 04:49 (GMT +7)
Bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản
Thứ 2, 16/07/2012 | 04:55:12 [GMT +7] A A
Là tỉnh có tiềm năng khoáng sản lớn và đa dạng; cho đến nay trên địa bàn tỉnh đã ghi nhận được 212 mỏ và điểm quặng của 36 loại khoáng sản, trong đó một số loại khoáng sản có tiềm năng và giá trị khai thác cao là than đá, đá vôi, cát thuỷ tinh... Với lợi thế về tài nguyên khoáng sản đó, những năm qua việc khai thác nguồn tài nguyên này đã có những đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế chung của tỉnh. Tuy nhiên, việc khai thác tài nguyên khoáng sản với quy mô, sản lượng như thời gian qua đã có những tác động tiêu cực đến môi trường đất đai, nước, không khí...
Trồng cây xanh trong khuôn viên Nhà máy Tuyển than Hòn Gai, góp phần tạo cảnh quan, bảo vệ môi trường. |
Báo cáo của Tập đoàn trong giai đoạn 2008-2011 đã thực hiện 23 dự án cải tạo phục hồi môi trường với tổng số kinh phí trên 300 tỷ đồng. |
Từ thực tế cho thấy hoạt động khai thác, vận chuyển, tiêu thụ than và khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng đã ảnh hưởng lớn đến môi trường tại địa phương, đặc biệt là khu vực sản xuất trực tiếp. Một số nguồn nước mặt chịu tác động trực tiếp từ các hoạt động khai thác than điển hình như: Hồ Nội Hoàng, suối Lộ Phong, suối Moong Cọc Sáu, sông Mông Dương. Kết quả quan trắc hiện trạng môi trường từ năm 2006-2010 cho thấy khu vực suối Lộ Phong chịu ảnh hưởng từ các hoạt động khai thác than của các mỏ Hà Tu, Núi Béo phía thượng nguồn, là nơi tiếp nhận nước thải sinh hoạt từ các khu dân cư xung quanh. Các đợt quan trắc gần đây cho thấy độ pH của nước suối thấp từ 5,1 đến 5,2 nằm ngoài giới hạn cho phép. Ngoài ô nhiễm về nước, môi trường không khí tại các khu vực có hoạt động vận tải than có biểu hiện ô nhiễm bụi cao như khu vực sản xuất vật liệu xây dựng tại phường Phương Nam (Uông Bí) hàm lượng bụi cao gấp 1,56 lần giới hạn cho phép; khu vực nhà sàng Công ty Than Mạo Khê hàm lượng bụi cao gấp 1,70 lần giới hạn cho phép, khu vực khai thác than Hà Tu, Núi Béo hàm lượng bụi đo được gấp 1,46 lần giới hạn cho phép... Không chỉ môi trường nước, không khí bị những tác động tiêu cực bởi hoạt động khai thác khoáng sản mà môi trường đất cũng chịu ảnh hưởng. Đặc biệt, biến đổi về địa hình và cảnh quan mạnh nhất diễn ra chủ yếu ở những khu vực có khai thác than lộ thiên. Một số bãi thải có độ cao trên 200m như: Cọc Sáu, Nam Đèo Nai, Đông Cao Sơn và có sườn dốc tới 35 độ. Nhiều moong khai thác lộ thiên tạo nên địa hình âm có độ sâu từ -50m đến -150m dưới mực nước biển trung bình (các mỏ Cọc Sáu, Hà Tu, Núi Béo...). Bên cạnh đó tình trạng xói mòn, rửa trôi và trượt lở xảy ra phổ biến trên khai trường khai thác than, trên các tuyến đường vận chuyển, đặc biệt là tại các bãi đổ thải.
Trước thực trạng trên, nhận thức được tầm quan trọng của công tác BVMT trong khai thác khoáng sản, các tổ chức, doanh nghiệp, đặc biệt là các đơn vị ngành than đã có nhiều biện pháp, giải pháp cụ thể nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường. Từ năm 2008 đến nay Vinacomin đã bắt đầu triển khai xây dựng các hệ thống xử lý nước thải mỏ và đã đưa vào vận hành 25 công trình xử lý cho các đơn vị thành viên. Lượng nước thải mỏ đã được xử lý trong năm 2011 thông qua 25 trạm xử lý nước thải là 25.922.000m3. Từ đầu năm đến nay Vinacomin đã đưa tiếp 6 trạm xử lý nước thải vào hoạt động, nâng tổng số các trạm xử lý nước thải lên 32 trạm. Đối với ngành Than việc phun nước chống bụi trên các tuyến đường nội mỏ và các tuyến đường vận chuyển than đã được Vinacomin triển khai thực hiện thường xuyên. Tập đoàn đã xây dựng 3 trạm rửa xe tại Công ty CP Than Núi Béo, Công ty Than Nam Mẫu và một trạm đặt tại Công ty Tuyển than Cửa Ông để rửa toa xe. Đồng thời thực hiện che phủ bạt cho các ô tô vận chuyển than trên các tuyến đường chuyên dùng. Đối với việc vận chuyển than bằng đường sắt: Công ty Kho vận Đá Bạc đã thực hiện lắp đặt 126 hệ thống che phủ bạt bán tự động cho 126/350 toa xe chở than bằng đường sắt của Công ty; Công ty Tuyển than Cửa Ông lắp đặt hệ thống phun sương làm ẩm bề mặt các toa xe sau khi rót than để giảm lượng bụi trong quá trình vận chuyển. Cùng với đó, hoạt động cải tạo phục hồi môi trường, chống trôi lấp đất đá cũng được Vinacomin chú trọng. Từ năm 2007, ngành Than đã thực hiện thay đổi công nghệ đổ thải tại các bãi thải, theo đó thiết kế các bãi thải được phê duyệt phải đáp ứng yêu cầu: Phân chia chiều cao tầng thải thành các phân tầng, có đê chắn chân bãi thải để bảo vệ các khu dân cư, công trình hạ tầng quanh chân bãi thải. Theo báo cáo của Tập đoàn trong giai đoạn 2008-2011 đã thực hiện 23 dự án cải tạo phục hồi môi trường với tổng số kinh phí trên 300 tỷ đồng. Trong đó, đã và đang thực hiện cải tạo các bãi thải lớn như: Chính Bắc (Núi Béo), Nam Lộ Phong (Hà Tu), Ngã Hai (Quang Hanh) và bãi thải Khe Sim - Lộ Trí - Đèo Nai. Đặc biệt Vinacomin đã ứng dụng trồng cỏ vetiver trên các sườn bãi thải Chính Bắc Núi Béo, Nam Lộ Phong và Nam Đèo Nai. Các đơn vị thành viên của Vinacomin cũng đã thực hiện trồng cây trên các tuyến đường vận chuyển, trên bãi thải, tại các mặt bằng phân xưởng... tạo cảnh quan và cải thiện điều kiện môi trường. Tính đến hết năm 2011, tổng diện tích cây các đơn vị của Tập đoàn đã trồng là 445ha.
Như vậy có thể thấy, các đơn vị hoạt động khai thác khoáng sản đã có những giải pháp thiết thực nhằm cải thiện môi trường, mức độ ô nhiễm môi trường ở nhiều khu vực được kiềm chế; ô nhiễm bụi được kiểm soát chặt chẽ hơn bằng việc tăng cường quản lý vận chuyển than, bốc xúc đất đá... Để môi trường được cải thiện hơn nữa thì các đơn vị, doanh nghiệp cần chú trọng đầu tư các công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường, giảm tỷ lệ tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên khoáng sản.
Trang Thu
Liên kết website
Ý kiến ()