Tất cả chuyên mục
Thứ Năm, 02/05/2024 04:54 (GMT +7)
Những công trình mang đậm tình hữu nghị Việt-Xô
Thứ 2, 06/11/2017 | 07:29:31 [GMT +7] A A
Trong những năm tháng khó khăn nhất của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Ninh nói riêng đã nhận được sự ủng hộ chí tình của Liên bang Xô Viết và nhân dân Liên Xô (cũ). Tại Quảng Ninh, nhiều công trình do Liên Xô giúp đỡ xây dựng đã gắn bó với bao thế hệ người dân Vùng mỏ, đến nay vẫn phát huy hiệu quả tích cực, như: Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí; các mỏ than, nhà máy cơ khí…
Chuyên gia Ucraina trên công trường xây dựng Dự án Hầm lò Mỏ Núi Béo |
Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí, (nay là Công ty Nhiệt điện Uông Bí) là công trình nhiệt điện lớn nhất miền Bắc vào thập niên 60 của thế kỷ XX, được Liên Xô giúp xây dựng vào năm 1961. Công trình là biểu tượng cao đẹp của tinh thần quốc tế vô sản trong sáng và là bông hoa thắm tình Hữu nghị Việt - Xô.
Theo lời những cán bộ tiền bối kể lại, những ngày đầu xây dựng Nhà máy, các chuyên gia Liên Xô đã sát cánh cùng cán bộ, kỹ sư, công nhân xây dựng Việt Nam thi công xây dựng. Thời kỳ đó dù rất khó khăn và gian khổ, nhưng những người bạn Liên Xô đã không quản vất vả, sát cánh cùng công nhân Việt Nam xây dựng Nhà máy. Với tinh thần “mỗi người làm việc bằng hai” chưa đầy một năm nhà máy đã sản xuất được điện phục vụ cho công cuộc xây dựng, tái thiết miền Bắc. Đến nay trải qua nhiều lần thay đổi mô hình quản lý, Công ty Nhiệt điện Uông Bí vẫn phát huy tốt nội lực, đẩy nhanh công tác đầu tư phát triển kinh doanh, nâng cao chất lượng điện thương phẩm. Mỗi năm, Nhiệt điện Uông Bí đóng góp vào điện lưới quốc gia khoảng 3 tỷ kWh điện. Thành quả mà Công ty Nhiệt điện Uông Bí đạt được như ngày nay có công sức của những người bạn Liên Xô.
Một trong những dấu ấn mang nặng ân tình của Liên Xô trên đất Quảng Ninh đó là hệ thống đường ống dẫn xăng dầu của Công ty Xăng dầu B12 (tiền thân là Công ty Tiếp nhận xăng dầu Quảng Ninh). Được biết Liên Xô đã giúp xây dựng hệ thống cảng tiếp nhận, kho bể chứa và tuyến đường ống xăng dầu. Hệ thống công trình được thiết kế thi công từ năm 1969, đến tháng 6/1973 hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng với nhiệm vụ cung ứng đảm bảo nguồn cho chiến trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Với sự giúp đỡ của Liên Xô ngày ấy, và sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể CBNV, trong suốt những năm tháng chiến tranh và thời kỳ xây dựng đất nước, Công ty Xăng dầu B12 luôn hoàn thành sứ mệnh giữ vai trò chủ đạo của một doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng thiết yếu, đảm bảo cơ bản các nhu cầu về xăng dầu cho phát triển kinh tế - xã hội, an ninh năng lượng quốc gia, dự trữ Quốc gia ở hầu hết các tỉnh miền Bắc.
Có lẽ dấu ấn hợp tác, gắn bó sâu nặng, lâu dài với những người bạn Liên Xô chính là các đơn vị ngành Than. Hầu khắp các mỏ than, các đơn vị vận tải, cơ khí đều in dấu sự hỗ trợ, hợp tác của những người bạn đến từ Liên Xô. Đơn cử như Mỏ Mông Dương (nay là Công ty Than Mông Dương); Mỏ than Núi Béo (nay là Công ty CP Than Núi Béo); Nhà máy cơ khí Trung tâm Cẩm Phả… Trong số đó có Mỏ Núi Béo đến bây giờ vẫn tiếp tục hợp tác với Ucraina trong xây dựng mỏ hầm lò.
Mỏ Núi Béo được thành lập ngày 7/11/1988 trên cơ sở thoả thuận giữa hai chính phủ: Việt Nam và Liên bang Xô Viết, do Viện Ghiprôsat thiết kế năm 1983. Trong quá trình phát triển cơ bản Mỏ Núi Béo vẫn giữ theo thiết kế do Viện Ghiprôsat thiết kế năm 1983.
Sau khi nguồn than lộ thiên cạn kiệt, Công ty CP Than Núi Béo đã chuyển sang khai thác than hầm lò. Dự án khai thác hầm lò Mỏ Núi Béo, được khởi công vào ngày 3/2/2012, là một trong những dự án trọng điểm có tổng mức đầu tư trên 5.300 tỷ đồng. Mỏ gồm cặp giếng đứng, công nghệ châu Âu: Giếng đứng chính từ mặt bằng mức +35 ÷ -351,6 chiều dài 386,6m; giếng đứng phụ từ mức +35,2 ÷ -381,6m, chiều dài 416,8m.
Đây sẽ là mức khai thác hầm lò sâu nhất của ngành Than. Ở độ sâu này, với công suất khai thác 2 triệu tấn/năm, mỏ sẽ hoạt động trong vòng 30 năm. Việc xây dựng hầm lò Mỏ Núi Béo đã được TKV giao cho Công ty Xây dựng mỏ hầm lò 1 hợp tác với Công ty TNHH Gomvina (Ukraina) thi công cặp giếng đứng của dự án. Trong giai đoạn đầu, các chuyên gia Ukraina làm, cán bộ, công nhân Việt Nam học; sau khi công nhân thành thạo sẽ chuyển giao hoàn toàn công nghệ cho phía Hầm lò 1 đảm nhiệm.
Sau hơn 5 năm triển khai, Dự án hầm lò Mỏ Núi Béo đang được đảm bảo đúng kế hoạch. Tính đến thời điểm này, lò chợ đầu tiên của Dự án đã khai thác được khoảng trên 100.000 tấn than và phấn đấu năm 2017 này sẽ khai thác được 150.000 tấn.
Phóng viên Báo Quảng Ninh chụp ảnh kỷ niệm cùng chuyên gia Ucraina và cán bộ Công ty XD Mỏ Hầm lò 1. |
Từ năm 1960, Đảng và Nhà nước đã có tầm nhìn chiến lược về việc cần phải xây dựng một nhà máy cơ khí lớn để phục vụ cho ngành sản xuất than tại Quảng Ninh. Ngày 23/7/1968, Nhà máy Cơ khí trung tâm Cẩm Phả được thành lập, (nay là Công ty CP Chế tạo máy - Vinacomin). Nhà máy được Liên Xô thiết kế và trang bị dây chuyền công nghệ đồng bộ, chính thức bắt đầu xây dựng từ năm 1964 với nhiệm vụ: Chế tạo phụ tùng thay thế, chế tạo các thiết bị bổ sung và sửa chữa hệ thống thiết bị - xe máy của vùng mỏ với công suất thiết kế là 16.963 tấn/năm. Thời gian từ năm 1978 đến năm 1986, theo thiết kế của Liên Xô, Nhà máy tiếp tục mở rộng và cải tạo nhằm nâng cao công suất lên tới 32.000 tấn sản phẩm/năm.
Các trang thiết bị của Nhà máy được thiết kế phù hợp với cơ khí chế tạo máy nặng cho các đơn vị ngành Than. Được sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô, Nhà máy Cơ khí trung tâm khi đó là một trong những đơn vị có quy mô lớn trong các nhà máy cơ khí của Việt Nam, đáp ứng được nhu cầu cấp thiết cho sự phát triển của ngành Than, cũng như phục vụ công tác quốc phòng trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ.
Hiện nay, Công ty CP Chế tạo máy - Vinacomin vẫn là đơn vị cơ khí hàng đầu của TKV, khẳng định năng lực, uy tín và trách nhiệm cao trong việc cung cấp các sản phẩm cơ khí cho các công trình công nghiệp và dân dụng trong nước và quốc tế; góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Không thể kể hết được những ân tình mà những người bạn Liên Xô đã dành cho Việt Nam. Những công trình được xây dựng từ tình hữu nghị Việt Nam - Liên Xô đó hiện vẫn phát huy được giá trị, không ngừng phát triển. Điều đó nhắc nhở mỗi chúng ta phải phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc và tình cảm quốc tế trong sáng, mãi mãi biết ơn và ghi nhớ sự giúp đỡ to lớn của nhân dân Liên Xô trước đây, Liên bang Nga ngày nay.
Đặng Nhung
Liên kết website
Ý kiến ()