Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 26/04/2024 15:08 (GMT +7)
Điều trị và phòng bệnh rối loạn nhân cách
Thứ 5, 16/04/2020 | 08:02:57 [GMT +7] A A
Rối loạn nhân cách là một nhóm các rối loạn tâm thần, chiếm khoảng 10% dân số. Phóng viên Trung tâm Truyền thông tỉnh đã trao đổi cùng bác sĩ Bùi Tiến Dũng, Phó Giám đốc Bệnh viện Bảo vệ sức khỏe tâm thần tỉnh, để giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về bệnh này.
- Xin bác sĩ cho biết, triệu chứng nào để nhận biết chứng rối loạn nhân cách?
+ Rối loạn nhân cách là một nhóm các rối loạn tâm thần, rất khó định nghĩa, thường biểu hiện: Phản ứng cứng nhắc, mất uyển chuyển trong các hoạt động xã hội, quan hệ cá nhân. Người bệnh có cách suy nghĩ, cảm nhận, hành động và cách ứng xử… lệch chuẩn so với các chuẩn chung của cộng đồng.
Đo điện não đồ cho bệnh nhân tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh. |
Rối loạn nhân cách có thể được phân thành 3 nhóm nhỏ. Nhóm A (rối loạn nhân cách phổ phân liệt): Nhân cách loại phân liệt, paranoid và giống phân liệt. Nhóm B (phổ cảm xúc): Nhân cách kịch tính, ranh giới, ái kỷ (tự yêu), chống đối xã hội. Nhóm C (phổ lo âu): Rối loạn nhân cách tránh né, phụ thuộc và bị động - xâm hại, rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng bức. Tùy thuộc vào rối loạn nhân cách khác nhau, người bệnh có những biểu hiện khác nhau.
+ Những người rối loạn nhân cách nhóm A: Có biểu hiện lập dị, xa lánh, tách rời, đề phòng quá mức, hơi thù địch, dễ có cảm giác mình bị coi thường, khuynh hướng kiện cáo, thích cô đơn, nghiền ngẫm các ý tưởng trìu tượng, khó hiểu (tâm linh, tiên tri, tận thế…)… Những người này thường gặp khó khăn khi kết nối với những người khác và với tập thể.
Rối loạn nhân cách né tránh thường nghĩ mình không xứng đáng, sợ sự gần gũi. |
+ Những người rối loạn nhân cách nhóm B: Với nhân cách ranh giới, thường lý tưởng hóa, lệ thuộc và khí sắc không ổn định, tính xung động nên dễ gây bạo lực, thương tích và lạm dụng chất; với nhân cách chống đối xã hội, thường lặp đi, lặp lại việc không đếm xỉa đến quyền của người khác, dẫn đến gây rắc rối thường xuyên về pháp luật, tính xung động, không có kế hoạch trước và không ăn năn; với nhân cách ái kỷ, thường ngạo mạn xem thường người khác mà họ cho là thấp kém, chỉ quan hệ với người xứng đáng hoặc người tôn sùng họ, có nhu cầu sâu sắc về sự được ngưỡng mộ, nhưng thiếu sự đồng cảm với người khác; với rối loạn nhân cách kịch tính, có nhu cầu về tình cảm quá mức, cảm xúc không ổn định, nông cạn, nhận thức méo mó, cường điệu, quá ấn tượng, thích được chú ý.
+ Những người bị rối loạn nhân cách nhóm C: Với nhân cách ám ảnh - cưỡng bức, người bệnh thường ngăn nắp, giờ giấc, lương tâm, trách nhiệm đến mức cứng nhắc, họ luôn làm mọi cách để đạt các tiêu chuẩn khắt khe của riêng họ; với nhân cách bị động - xâm hại, họ nhận thức bản thân như nạn nhân vô tội, bị bỏ mặc, nên họ thường bướng bỉnh, xưng xỉa, không hợp tác; với nhân cách né tránh, thường xuyên nghĩ mình không xứng đáng, họ thích nhưng cũng sợ sự gần gũi, sợ trách nhiệm, không muốn tiếp xúc và miễn cưỡng trong các hoạt động xã hội.
Các biểu hiện trên là tiên phát, không phải là hậu quả của các bệnh rối loạn tâm thần, nghiện chất, tổn thương não bộ, các sang chấn tâm lý. Hiện rối loạn nhân cách chiếm khoảng 10% dân số.
- Nguyên nhân nào gây ra rối loạn nhân cách, thưa bác sĩ?
+ Có rất nhiều nguyên nhân gây rối loạn nhân cách. Bệnh có thể phát triển từ các nhân tố tâm lý, nhân tố sinh học, nhân tố xã hội và văn hóa. Nhân tố tâm lý như đã bị bạo hành, lạm dụng hay thiếu chăm sóc trong thời thơ ấu.
Kiểm tra sức khỏe cho bệnh nhân đang điều trị tại Bệnh viện Bảo vệ sức khỏe tâm thần tỉnh. |
Nhân tố sinh học như tính di truyền do gen, ức chế não do sang chấn thời kỳ thơ ấu làm rối loạn các chất hóa học trong não bộ. Nhân tố xã hội văn hóa như tan vỡ gia đình, thay đổi thể chế xã hội, thay đổi của các giá trị truyền thống của xã hội, xã hội coi trọng vật chất hơn giá trị đạo đức…
- Cần điều trị và phòng bệnh ra sao, thưa bác sĩ?
+ Khi có bất kỳ biểu hiện nào của rối loạn nhân cách, cần sớm đến khám tại các chuyên khoa tâm thần để được tư vấn, hỗ trợ kịp thời. Điều trị rối loạn nhân cách thường kết hợp nhiều phương pháp, như: Tâm lý trị liệu (liệu pháp nâng đỡ, tâm thần động học, hành vi nhận thức); sử dụng thuốc cân bằng lại các hormone và các chất dẫn truyền thần kinh trong não, như thuốc chống trầm cảm, thuốc giúp ổn định khí sắc, thuốc chống loạn thần, thuốc chống lo âu.
Cùng với đó, người bệnh cần có chế độ sinh hoạt phù hợp; gắn kết gia đình và bạn bè, hỗ trợ từ người thân trong các liệu pháp điều trị. Cải thiện các điều kiện xã hội: Việc làm, nghề nghiệp, thu nhập các mối quan hệ và vai trò trong cộng đồng.
- Xin cám ơn bác sĩ!
Thu Nguyệt (Thực hiện)
[links()]
Liên kết website
Ý kiến ()