Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 26/04/2024 19:18 (GMT +7)
Chuyện về người lính Điện Biên năm xưa
Thứ 4, 07/05/2014 | 10:49:37 [GMT +7] A A
“Đã 60 năm qua rồi, chiến thắng Điện Biên Phủ được nhiều sách báo nhắc đến, phân tích, đánh giá tưởng như đầy đủ. Nhưng còn những câu chuyện riêng đã thành ký ức của mỗi người lính Điện Biên thì vẫn tiếp tục được kể...” - Cựu chiến binh Phạm Công Thành, nguyên là y tá tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ nói với tôi như vậy, trong một lần trò chuyện.
Con dao mà nữ y tá người Pháp trao tặng được ông Thành giữ làm kỷ niệm. Ảnh: Phạm Học |
Vì cái câu chuyện riêng chưa được kể ấy mà tôi đã tìm đến nhà hỏi chuyện ông. Nhà ông Phạm Công Thành ở trong một con ngõ sâu thuộc khu phố Chùa Bằng, TX Quảng Yên. Năm nay, ông Thành đã bước sang tuổi 90. Tóc đã bạc trắng, dáng đi đã còng xuống vì sức nặng của thời gian, tuổi tác. Nhưng đôi mắt ông thì còn tinh anh lắm. Khi tôi gợi chuyện về Điện Biên, đôi mắt ông như sáng hơn. Ông kể, ngày đó, ông đang làm công an thì được đơn vị huy động lên Điện Biên Phủ. Ông đi học quân y 6 tháng rồi về đơn vị mới là Trung đoàn 141, Đại đoàn 312. Ông Thành là Tiểu đội trưởng trong Tiểu đoàn quân y có nhiệm vụ băng bó, cấp cứu thương binh, chuyển về tuyến sau, chôn cất liệt sĩ. Khi tập trung toàn lực lượng, ông lại cùng đơn vị đào hầm hào, tham gia kéo pháo, củng cố trận địa. Chính công việc đó đã giúp ông gặp được những anh hùng của thời đại và cả những con người bên kia chiến tuyến. Nó là ký ức không thể phai mờ trong tâm trí người cựu chiến binh này.
Kỷ niệm về anh Giót...
Một phần ký ức không thể phai mờ trong ông Thành có tên người anh hùng Phan Đình Giót, người ông đã trực tiếp cứu thương. Nhắc đến Phan Đình Giót giọng ông như chùng xuống, đôi mắt như mờ xa…
Ông nói trong xúc động: “-Kỷ niệm về anh Giót luôn ám ảnh tôi sáu chục năm rồi…”. Nói rồi, ông bắt đầu kể: “Ấy là vào buổi chiều ngày 13 tháng 3 năm 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn bằng trận đánh vào Him Lam. Bộ đội đại đội 58 lao lên mở đường…”.
Theo lời kể của ông, trận chiến lúc đó vô cùng ác liệt, gay go. Hoả lực của Pháp từ lỗ châu mai bắn ra xối xả. Nhiều đồng đội của ông đã ngã xuống dưới mưa bom bão đạn. Dù đã đào hào tiếp cận rất gần để đánh vây lấn nhưng cũng rất khó để bội đội ta tiến lên chiếm cứ điểm này. Sau đó, những người lính của đại đội 58 đã dùng phương án đánh bộc phá. “-Tôi không có mặt bên anh lúc đó, nhưng nghe mọi người kể lại, Phan Đình Giót đánh quả thứ chín thì bị thương vào đùi. Lúc ấy cỡ khoảng 10 giờ đêm. Tôi băng bó cho anh. Dù bị thương nhưng anh vẫn xung phong đánh tiếp” - ông Thành dừng lại một lát rồi tiếp tục câu chuyện: “-Phan Đình Giót đánh liên tiếp hai quả bộc phá nữa, rồi ôm bộc phá, cầm tiểu liên mở thông đường để quân đội lên đánh lô cốt đầu cầu, rồi tiến công lô cốt số 2. Lần này, Phan Đình Giót bị thương vào vai, mất máu nhiều. Đồng đội đưa anh lùi lại phía sau. Tôi lại tiếp tục băng bó cho anh… Băng bó xong, anh Giót lại lao ra khỏi hầm, được một lát, thì tôi nghe thấy đạn pháo từ lô cốt số 3 tiếp tục bắn mạnh. Mũi tiến công của đơn vị anh Giót bị ùn lại. Lúc này, anh Giót mất máu nhiều, đã yếu nhưng vẫn nâng tiểu liên bắn vào lỗ châu mai, miệng hô to xung phong. Rồi sau đó, anh ôm bộc phá lao cả thân mình úp vào bịt kín lỗ châu mai…”.
Ông Phạm Công Thành (ngồi giữa) và đồng đội chụp ảnh lưu niệm sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, mùa hè năm 1954 tại Phù Ninh, Phú Thọ. (Ảnh do ông Thành cung cấp) |
Ông Thành cho biết, chỗ ông Thành đứng cách lô cốt của Pháp cỡ chừng hơn 200 mét nên quan sát khá rõ. “Tôi nghe đạn pháo của địch im bặt, đoán biết hoả điểm của chúng đã bị dập tắt. Quân ta tiếp tục xung phong. Rồi lại nghe tiếng đạn pháo bắn ra. Tôi không dám tin Phan Đình Giót đã hy sinh” - Người lính già bùi ngùi nhớ lại.
Tôi quay sang hỏi ông Thành, sao lúc ấy thấy Phan Đình Giót bị thương nặng đến vậy mà ông không ngăn lại rồi chuyển về tuyến sau như vẫn làm với nhiều đồng đội khác. Ông Thành ôn tồn, bảo: “-Anh không biết đó thôi. Lúc ấy khí thế chiến đấu của quân ta mạnh lắm. Ai cũng chỉ nghĩ đến tiến công. Trong đó, anh Giót là tấm gương anh dũng ai cũng khâm phục. Mà dù có muốn ngăn cũng không ai ngăn được…”.
Đang kể, ông Thành chợt dừng lại, đôi mắt chớp chớp, chừng như cố ngăn giọt nước mắt chỉ chực trào ra. “-Thú thực, tôi đã chứng kiến rất nhiều đồng đội hy sinh. Cũng quen dần với việc băng bó, mai táng đồng đội. Nhưng khi chứng kiến anh Giót bị thương nặng lao vào lấp lỗ châu mai, cơ thể bị đạn bắn nát, tôi không cầm được nước mắt. Tôi khóc bởi biết hoàn cảnh của anh, thương anh, một chàng trai côi cút, phải đi ở cho nhà giàu…”.
Và “cứu tinh” của người đẹp bên kia chiến tuyến
Ông Thành khoe, cũng trong ngày ông gặp Phan Đình Giót, ông đã cứu thương cho một “bóng hồng” bên kia chiến tuyến. Tôi lại thấy tò mò với câu chuyện của ông. Ông Thành bảo: “Anh cứ uống trà đi đã. Tôi kể bây giờ đây mà”. Theo lời ông, lúc đó ông và 2 y tá cùng ông Nguyễn Văn Giản, Chính trị viên Đại đội đi cứu chữa thương binh, chôn cất liệt sĩ và thu dọn chiến trường. Bất chợt ông phát hiện có một cô gái người Pháp nằm rên trên mặt đất. Một vết rách rất lớn phía đùi, trên chiếc quần ca-ki của cô. Máu từ vết thương chảy ra đầm đìa. Người cô tái đi. Ông Thành phân vân: “-Sao lại có cô gái Pháp ở đây? Cô ta là người phía bên kia chiến tuyến, là kẻ thù. Nhưng mình là y tá, gặp người bị thương không thể không cứu. Với lại, chúng ta vẫn có chính sách khoan hồng với tù binh mà”.
Ông Thành bảo, ông đã quyết định cứu thương cho cô gái nhưng quả thực lúc đó cũng lóng ngóng thật. “Vợ thì chưa có lại phải băng bó ở đùi cho một cô gái trẻ rất đẹp, bên kia chiến tuyến. Cũng chẳng có vải mà băng nữa. Chiếc quần lại rất dày. Phải làm gì đây?” - Ông Thành tủm tỉm cười.
Đang phân vân thì cô gái trẻ hỏi ông bằng tiếng mẹ đẻ của cô, rằng ông có nói được tiếng Pháp không. May mà trước khi đi bộ đội, ông Thành có học và nói khá tốt tiếng Pháp nên cũng dễ dàng hơn. Cô gái trẻ bảo ông đừng ngại với cái quần ca-ki ấy. Hãy móc trong túi quần cô một con dao để rạch lấy miếng vải từ chiếc quần này mà băng lại. Khi vết thương đã được băng xong cô gái gượng cười cảm ơn. Cô y tá người Pháp hỏi ông: “-Anh đã có vợ chưa”. Khi người y tá Việt Nam lắc đầu đáp chưa thì cô gái buông một câu khen ngợi: “Anh rất trẻ, rất đẹp trai. Việt Minh muôn năm”.
Ông Thành cười, hóm hỉnh: “-Trẻ thì đúng rồi. Còn đẹp trai thì kể cũng hơi… nịnh! Nhưng tôi tin cái sự xúc động, biết ơn bộ đội Việt Minh của cô ấy là thật”.
“-Sau cuộc chiến, chúng tôi trao trả tù binh. Tôi cũng chưa kịp hỏi cô ấy tên gì. Chỉ nhớ lúc băng bó xong, cô ấy tặng tôi một kỷ vật…”. Nghe đến đây, tôi hơi tò mò nên dò hỏi: “-Nó là cái gì vậy ông? Cho cháu xem được không”.
Ông Thành gật đầu rồi đi lại góc làm việc của mình. Nơi đó có 2 bức ảnh Bác Hồ, những bộ quần áo lính đã cũ, ảnh kỷ niệm của riêng ông. Lục tìm trong đống hồ sơ đã ố màu thời gian, ông Thành rút ra một vật gì đó bằng kim loại rồi khoe: “-Nó đây. Con dao mà tôi đã dùng để rạch quần cô gái ấy đó”. Ông Thành đưa cho tôi xem. Một con dao nhíp nhỏ đa năng, có rất nhiều lưỡi. 60 năm rồi mà nó vẫn còn như mới. Trên thân dao ghi một dòng chữ tiếng Pháp theo như giải thích của ông Thành thì đó là nhãn hiệu sản xuất con dao và vật liệu làm ra nó là loại thép không gỉ của Pháp. Ông Thành cười bảo, vì con dao ấy mà ông “mất ăn mất ngủ” mấy ngày liền...
Chẳng là lúc đầu khi cô gái ngỏ ý tặng dao, ông Thành kiên quyết không nhận vì biết nếu nhận sẽ vi phạm kỷ luật lấy chiến lợi phẩm. Cô y tá người Pháp phải nói dỗi, đây là kỷ vật để hàm ơn ghi nhớ sự gặp gỡ này. Ông Thành miễn cưỡng nhận. Ngay sau đó, Chính uỷ Trung đoàn gọi ông lên gặp. Ông Thành lo sợ chuẩn bị tinh thần sẽ đối diện với án kỷ luật. Thế nhưng, sau khi nghe ông Thành báo cáo sự việc, thủ trưởng của ông lại trấn an: “-Cậu cứ cầm lấy con dao không cần phải nộp. Nó là của cậu”. Ông Thành mừng thầm, cầm dao ra về.
Chỉ vào con dao, ông Thành khoe, ngoài con dao mà cô y tá tặng ra, ông còn 2 kỷ vật khác liên quan đến chiến dịch Điện Biên Phủ. Đó là chiếc mũ lá mà ông cũng như nhiều anh em bộ đội lúc đó vẫn tự làm và chiếc ca uống nước do Bác Hồ tặng, trên đó in hình 3 lá cờ Việt - Trung - Xô. Sau chiến dịch, ông là một trong những người lính của Đại đoàn 312 được tuyên dương chiến sĩ thi đua. Sau đó, ông còn được cử đi học bác sĩ rồi về công tác tại Cục Quân y, vào miền Nam nghiên cứu chống chiến tranh vi trùng. Miền Nam giải phóng, ông chuyển về Bộ Nông nghiệp công tác cho đến lúc nghỉ hưu.
Tiễn tôi ra đến cổng, ông Thành vẫn dáng đi còng còng ngước lên khoe: “-Tôi mới đi Điện Biên về đấy. Chiến trường xưa giờ đã đổi thay, khác trước rất nhiều. Tôi cũng mừng. Ở tuổi của tôi bây giờ, chẳng biết có còn đi thăm Điện Biên được lượt nữa không…?”. Ông Thành lại buông lửng câu nói. Tôi nghĩ dù sức khoẻ có cho phép ông đi thăm lại Điện Biên hay không thì cái phần ký ức về quãng đời tuổi trẻ vẫn hiện hữu trong ông. Một ký ức hào hùng và bi tráng...
Thuý Quỳnh (CTV)
Liên kết website
Ý kiến ()