Tất cả chuyên mục
Thứ Bảy, 27/04/2024 06:42 (GMT +7)
Góp ý, sửa đổi các điều 54 và 55
Thứ 5, 21/02/2013 | 05:12:34 [GMT +7] A A
Hiến pháp là luật cơ bản, luật gốc. Việc sửa đổi hiến pháp được thực hiện theo trật tự pháp lý đặc biệt theo quan điểm, định hướng của Đảng và xem xét các vấn đề phải khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển.
Bốn bản hiến pháp trước đây đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó, đồng thời để lại nhiều kinh nghiệm quý báu, nền tảng cho việc sửa đổi hiến pháp lần này. Việc kế thừa, loại bỏ, bổ sung những quy phạm pháp luật hiến pháp phải phù hợp với tình hình đất nước trên cơ sở dân trí, dân sinh, dân chủ và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Hoạt động kinh tế nhằm mục đích thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân; thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mọi biện pháp quản lý nhà nước phải hướng vào giải phóng và phát triển sức sản xuất xã hội.
Để giải phóng sức sản xuất xã hội, phải bắt đầu từ việc nhận thức đầy đủ tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, các điều kiện trong nước và quốc tế để xác lập hình thức xã hội của sản xuất cho phù hợp. Theo đó, điều 54, dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 xác định:
1. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.
2. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật.
Điều 54, nên gộp 2 khoản vào một và viết lại như sau: Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật.
Điều này khẳng định quan điểm của Đảng và Nhà nước nhất quán lâu dài thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Từ đó, cụ thể hoá vai trò của Nhà nước; vai trò, vị trí các thành phần kinh tế; cạnh tranh, chống độc quyền... trong các ngành luật phù hợp với từng giai đoạn lịch sử.
Để bảo đảm vừa có tính cơ bản vừa có tính linh hoạt, một mặt, không cần nêu số lượng, vai trò, vị trí các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế. Bởi vì, trên thực tế không có Nhà nước XHCN nào lại xây dựng CNXH trên nền tảng chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và cũng không có Nhà nước tư sản nào xây dựng chủ nghĩa tư bản trên nền tảng công hữu XHCN về tư liệu sản xuất; mặt khác, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất chủ đạo quyết định bản chất chính trị của một quốc gia. Ở nước ta, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, điều đó đã mặc định Nhà nước là người thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu; kinh tế nhà nước nắm vai trò chủ đạo (mở đường, dẫn dắt). Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước không ảnh hưởng đến tự do cạnh tranh và sự bình đẳng trước pháp luật của các thành phần kinh tế, mà nó làm cho nền kinh tế vận động đúng hướng và ngày càng tốt lên.
Sản xuất bao giờ cũng mang tính xã hội, các chủ thể kinh tế luôn có sự phân công, hợp tác trong nền kinh tế quốc dân và phân công hợp tác quốc tế. Vì vậy, không cần nêu: “Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân”. Hơn nữa, cách phân chia thành phần kinh tế trước đây đã bộc lộ yếu tố xa dần với nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế hiện nay, ngay cả trong một đơn vị kinh tế cũng như trên một không gian nhất định.
Điều 55 cần viết gọn như sau:
1. Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế phù hợp với nền kinh tế thị trường, bảo đảm phát triển hợp lý, hài hoà và thống nhất nền kinh tế quốc dân.
2. Nhà nước thống nhất quản lý hoạt động kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và cùng có lợi, phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế.
Về lý luận, chính trị, pháp luật và thiết chế tương ứng là chính đảng và nhà nước thuộc kiến trúc thượng tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định. Chính trị, pháp luật là hai thành tố tác động trực tiếp, mạnh mẽ đến cơ sở hạ tầng. Nếu nó phù hợp với cơ sở hạ tầng sẽ thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển; ngược lại, sẽ kìm hãm sự phát triển. Sự kìm hãm không phải vô hạn mà có giới hạn, bởi điều kiện kinh tế-xã hội quyết định chính trị, pháp lý. Ý thức đầy đủ điều này sẽ hạn chế duy ý chí trong hoạch định, sửa đổi, loại bỏ chính sách của Nhà nước. Tính đúng đắn, chính xác của quy phạm pháp luật là nguyên tắc; còn tính phù hợp phản ánh hiện thực sự sống của pháp luật và năng lực quản lý điều hành của nhà nước. Hiến pháp năm 1980 có nhiều điều rất đúng nhưng không phù hợp nên không đi vào cuộc sống và do đó không thực hiện được như điều 21 “Nhà nước giữ độc quyền về ngoại thương và mọi quan hệ kinh tế khác với nước ngoài”; thực hiện chế độ học không phải trả tiền (điều 60); công dân có quyền có nhà ở (điều 62)...
Hoạt động kinh tế đối ngoại là một tất yếu của mỗi nhà nước trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế. Mục tiêu của hoạt động kinh tế đối ngoại không chỉ đơn thuần về kinh tế mà là hoạt động nhạy cảm có tính tổng hợp, trong đó kinh tế bao giờ cũng phục vụ chính trị và chính trị luôn luôn bao hàm nội dung kinh tế. Vì vậy, “tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ” là tối cao và “cùng có lợi, phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế” phản ánh lợi ích của các bên trong quan hệ quốc tế nói chung và hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng. Hoạt động kinh tế đối ngoại vượt ra khỏi biên giới quốc gia đòi hỏi phải có sự quản lý thống nhất, nghiêm ngặt, linh hoạt của Nhà nước. Và nó chỉ thật sự có hiệu lực, hiệu quả khi thực hiện đầy đủ nguyên tắc này.
TS, Luật gia: Trần Xuân Ảnh
(Trường Chính trị Nguyễn Văn Cừ)
Liên kết website
Ý kiến ()