Tất cả chuyên mục
Thứ Bảy, 20/04/2024 05:03 (GMT +7)
Thương cảng Vân Đồn: Trung tâm giao thương quốc tế nổi tiếng một thời
Thứ 5, 20/03/2014 | 14:11:48 [GMT +7] A A
Tên gọi Vân Đồn xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam là vào thời Lý, năm 1149, khi vua Lý Anh Tông cho khai mở trang Vân Đồn để đón thuyền buôn nước ngoài vào buôn bán, trao đổi hàng hoá với nước ta. Từ đó cho đến tận thế kỷ XVII, Vân Đồn trên cốt lõi của thời Lý, Trần, vẫn là một trung tâm buôn bán sầm uất, nổi tiếng hàng đầu đất nước. Cùng với đó, đây còn là một địa bàn chiến lược có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bảo vệ an ninh vùng Đông Bắc. Để có thêm một cái nhìn toàn diện về các giá trị của khu di tích Thương cảng Vân Đồn, chúng tôi đã có cuộc trao đổi cùng nhà khảo cổ học Nguyễn Ngọc Chất (Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam), người đã có những nghiên cứu và khảo sát thực địa tại đây trong những năm qua.
Nhà khảo cổ Nguyễn Ngọc Chất. |
- Thưa anh, từ thực tế nghiên cứu, khảo sát về Thương cảng cổ Vân Đồn của Quảng Ninh, anh có đánh giá như thế nào về những giá trị nổi bật của di tích?
+ Không chỉ tôi mà nhiều nhà khoa học cũng đã có những nghiên cứu, đánh giá về Thương cảng Vân Đồn; khẳng định vai trò của nó trong lịch sử ở 2 phương diện là trung tâm giao thương quốc tế và là vị trí trọng yếu của an ninh quốc gia vùng biển Đông Bắc.
Thứ nhất, vùng biển này được đặc biệt coi trọng vì có một vị trí xung yếu trên đường hải vận Trung Quốc - Việt Nam, kéo dài sang các nước Đông Á và xuống Đông Nam Á. Chính vì vậy, nơi đây sớm trở thành vị trí trung tâm của con đường giao lưu kinh tế, văn hoá từ Bắc vào Nam. Bên cạnh đó, vùng biển này còn giữ một vị trí chiến lược xung yếu trong các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm phương Bắc của quân dân Đại Việt. Năm 1075, để giành thế chủ động trước nguy cơ xâm lược của nhà Tống, Thái uý Lý Thường Kiệt từng kéo đại binh theo đường thuỷ dọc bờ Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long bất ngờ tập kích vào các căn cứ quân sự Khâm Châu, Liêm Châu... Còn ở thế kỷ 13, trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên lần 3, Trần Khánh Dư đã cho quân mai phục và tiêu diệt gọn đoàn thuyền lương do Trương Văn Hổ cầm đầu trên dòng sông Mang và sông Cửa Lục, góp phần quan trọng làm nên đại thắng Bạch Đằng lịch sử năm 1288.
- Có vị trí quan trọng như vậy, lại tồn tại kéo dài qua các thời Lý - Trần - Lê, vì sao Thương cảng Vân Đồn lại dần đi vào suy thoái?
+ Thực tế, việc buôn bán giữa Đại Việt và các quốc gia phương Nam cũng như phương Bắc đã diễn ra ngay từ 10 thế kỷ đầu sau Công nguyên. Giai đoạn này, sử cũ đã ghi chép về việc các sứ thần, lái thương từ các quốc gia Đông Nam Á, Ba Tư, Ấn Độ… qua lại Giao Châu để buôn bán, thiết lập quan hệ ngoại giao và từ đó có thể tiến lên phương Bắc (Trung Quốc). Khi Thương cảng Vân Đồn chính thức được thành lập, thương nhân các nước tới đây buôn bán ngày một nhiều và thường xuyên hơn.
Sang thời Trần, Vân Đồn phát triển thịnh vượng nhất, cư dân tụ họp về đây ngày một đông đúc hơn, trong đó có cả những bộ phận cư dân ngoại kiều đến Vân Đồn buôn bán và sinh sống lâu dài. Còn vào thời Lê, để bảo vệ nguồn tài nguyên, khoáng sản và nắm quyền kiểm soát ngoại thương ở Vân Đồn, chính quyền Lê sơ siết chặt hơn các chính sách, đặt ở các cửa biển quan Sát Hải coi giữ, ngoài ra, còn có An Phủ ty và Đề Bạc ty kiểm soát việc buôn bán, đi lại với nhiều quy định rất khắt khe. Tuy vậy, hoạt động thương mại ở đây vẫn tiếp tục diễn ra nhộn nhịp. Đặc biệt, với chính sách “Hải cấm” của nhà Minh (1368-1644), cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống thương mại châu Á, mặt hàng gốm sứ Việt Nam đã có điều kiện vươn ra và khẳng định thương hiệu trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII, với sự hưng thịnh của các trung tâm thương mại lớn như Thăng Long (Kẻ Chợ), Phố Hiến (Hưng Yên) ở Đàng Ngoài và Thanh Hà (Phú Xuân - Huế), Hội An (Quảng Nam), Nước Mặn (Quy Nhơn) ở Đàng Trong…; nhà Minh bãi bỏ chính sách “Hải cấm”, cộng với nguy cơ xâm lược lớn nhất không phải đến từ Trung Quốc nữa mà là từ phương Tây thì Vân Đồn đã dần mất vị trí quan trọng về ngoại thương cũng như quân sự. Tại đây chỉ còn diễn ra hoạt động buôn bán nhỏ với tình hình an ninh không được đảm bảo, triều đình phong kiến ít quan tâm hơn. Sang thời Nguyễn (thế kỷ XIX-XX), Thương cảng Vân Đồn đã mất hẳn vai trò hoạt động thương mại. Cư dân trên các bến cổ di chuyển đi nơi khác, kho tàng, bến bãi, nhà cửa bị dỡ bỏ. Các bến thuyền cổ chuyển sang phục vụ nhu cầu tối thiểu của nhân dân địa phương cho sản xuất nghề cá, nghề muối và trao đổi lâm sản nội địa. Do giặc giã, cướp bóc nổi lên nhiều, nhà Nguyễn đã xây dựng các đồn bảo và cắt cử quân đội để bảo vệ vùng cửa ngõ trọng yếu này.
- Các di tích về Thương cảng xưa hiện nay chỉ còn lại rất ít dấu vết. Vậy theo anh, để bảo tồn và phát huy giá trị của di tích cần làm như thế nào?
+ Là một thương cảng nổi tiếng, được hình thành và phát triển trong gần hết chiều dài lịch sử quân chủ Việt Nam nên từ lâu, Vân Đồn đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong nước và quốc tế. Tuy vậy, hệ thống di tích Thương cảng Vân Đồn đến nay vẫn còn đặt ra nhiều câu hỏi, thách thức với giới nghiên cứu. Trong đó, việc xác định chính xác vị trí trung tâm của Thương cảng qua từng giai đoạn lịch sử là một vấn đề còn gây nhiều tranh cãi. Hệ thống các công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng cũng chưa được đầu tư nghiên cứu một cách hệ thống; trong khi đó di tích đã dần bị phá huỷ do quá trình canh tác, san lấp đất lấy mặt bằng hoặc đã biến thành khu nghỉ dưỡng. Cấu trúc của các bến cảng, phương thức chuyên chở cũng như hoạt động giao thương của Thương cảng xưa vẫn còn chưa được làm sáng tỏ. Công tác nghiên cứu khảo cổ học chủ yếu mới dừng lại trong việc điều tra, khảo sát trên bề mặt, tính đến nay chỉ mới có 4 đợt thám sát nhỏ, chưa tổ chức khai quật quy mô để có thể nhìn nhận khách quan hơn về lịch sử hình thành, phát triển và biến đổi của Thương cảng...
Tóm lại, với những kết quả nghiên cứu hiện nay, chúng ta khó có thể khôi phục được toàn bộ diện mạo của Thương cảng Vân Đồn qua các thời kỳ. Nhưng chắc chắn rằng, trong suốt hơn 700 năm lịch sử, Vân Đồn không chỉ hoạt động đơn tuyến với chỉ một bến cảng duy nhất mà phải là một hệ thống các bến bãi, vụng đỗ tàu liên đới với nhau. Thiết nghĩ, nghiên cứu Thương cảng Vân Đồn cũng cần nhìn rộng ra trong bức tranh toàn cảnh về hoạt động thương mại trên biển của Việt Nam trong hệ thống thương mại Châu Á từ thời Bắc thuộc cho đến thế kỷ XVII, XVIII. Hiện nay, còn có ý kiến cho rằng Thương cảng Vân Đồn là một trong những đầu mối giao thông quan trọng của “con đường tơ lụa trên biển” nổi tiếng Trung Quốc.
Ngoài những vấn đề khoa học kể trên, việc lập Quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị của Khu di tích Thương cảng Vân Đồn hiện nay là một vấn đề quan trọng, cấp thiết, cần tích cực triển khai và đưa vào thực tiễn; nhất là vấn đề tổ chức nghiên cứu, khai quật khảo cổ để làm rõ các giá trị văn hoá, lịch sử của di tích, trên cơ sở đó sẽ phục hồi, tôn tạo một số công trình tôn giáo, tín ngưỡng để tạo điểm nhấn thu hút khách tham quan, làm “cột mốc biên cương” của nước ta nơi vùng biển đảo này. Đồng thời, cần phối hợp với các công ty du lịch để kết nối thành những tuyến điểm tham quan hấp dẫn, góp phần đưa Vân Đồn trở thành một “hòn ngọc” nơi địa đầu vùng biển Đông Bắc.
- Xin cảm ơn anh về cuộc trò chuyện!
Phan Hằng (Thực hiện)
Liên kết website
Ý kiến ()