Tất cả chuyên mục
Thứ Năm, 25/04/2024 16:25 (GMT +7)
Trường Sơn ngày trở lại
Chủ nhật, 07/04/2019 | 08:50:41 [GMT +7] A A
Đúng 5 giờ sáng, xe chúng tôi lăn bánh từ trung tâm TX Đông Triều để lên đường trở lại Trường Sơn nơi chúng tôi đã từng chiến đấu.
Đoàn thắp hương viếng đồng đội tại Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn. |
Phía trước xe chiếc băng zôn có dòng chữ: “Cựu chiến binh Trường Sơn tỉnh Quảng Ninh về thăm chiến trường xưa”. Đó là chủ đề xuyên suốt cuộc hành trình này. Trên xe có 24 thành viên gồm các đồng chí trong Ban Chấp hành Hội Truyền thống Trường Sơn tỉnh Quảng Ninh và các văn nghệ sĩ ở TX Đông Triều. Mọi người ai cũng hồ hởi, phấn khởi chuyện trò râm ran làm sao cho mau đến chiến trường xưa để được thêm một lần trải nghiệm.
Màu áo lính được khoác trên mình hôm nay trở về chiến trường xưa sao mà thiêng liêng ý nghĩa đến vậy. Đó là màu xanh hy vọng, màu xanh bộ đội hình tượng chiến thắng của “Bộ đội Cụ Hồ”. Đồng thời, màu áo ấy cũng gợi lên cho mọi người trọng trách lớn lao của mình trong chuyến đi để trải nghiệm, thắp lửa là nguồn cảm hứng sáng tác những tác phẩm thơ, nhạc, là món quà tinh thần tri ân đồng đội nhân kỷ niệm 60 năm Ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn.
Thỉnh chuông viếng vong linh đồng đội. |
Chiều hôm đó đoàn vào dâng hương mộ Đại tướng Võ Nguyên Giáp ở huyện Quảng Trạch. Đứng trước anh linh 1 vĩ nhân, anh cả của lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam đã được Bác Hồ tặng dòng chữ: “Dĩ công vi thượng - nhân trí truyền gia” cùng với lúc phong hàm Đại tướng năm 1948. Chúng tôi thầm nghĩ làm sao phải sống xứng đáng với vị Đại tướng của nhân dân. Những con sóng lăn tăn xô bờ hòa vào cơn gió chiều mát lạnh ru người con đất mẹ yên giấc ngủ ngàn thu.
Khoảng 17 giờ chiều cùng ngày, chúng tôi đã đến TP Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình và nghỉ lại ở đây - một địa điểm nóng của chiến tranh trong những năm 60 của thế kỷ trước. Quảng Bình là trọng điểm đánh phá ác liệt trong chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ những năm 60 của thế kỷ 20. Nhiều địa danh đã trở thành đất thiêng, nhiều con người bình dị đã thành anh hùng. Mệt thế mà khi cơm tối xong mọi người vẫn vãn cảnh trên con đường thênh thênh bên dòng sông Nhật Lệ thơ mộng. Nơi đây có tượng đài Mẹ Suốt sừng sững biểu tượng cho khí phách anh hùng của những người mẹ Việt Nam trong những năm tháng đánh giặc ngoại xâm. Hình ảnh của mẹ đã được khắc họa đầy đủ trong bài thơ “Mẹ Suốt” của nhà thơ Tố Hữu: “Lặng nghe mẹ kể ngày xưa/ Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình”.
Đoàn dâng hương tại Ngã ba Đồng Lộc. |
Sáng hôm sau, xe chúng tôi lại tiếp tục lăn bánh trên quốc lộ 1 hướng về phía Nam. Độ 7 giờ thì đến thành phố Đông Hà thủ phủ của tỉnh Quảng Trị. Đoàn vào nghĩa trang Trường Sơn thắp hương cho hơn 10 ngàn cán bộ, chiến sĩ nằm lại trong nghĩa trang này. Các đồng chí trong Ban Chấp hành Hội Trường Sơn tỉnh Quảng Trị ra tận nghĩa trang Trường Sơn đón chúng tôi với tinh thần cởi mở, thân thiện và thắm tình đồng đội. Sau 9 tiếng chuông thỉnh lên ngân nga, nhạc bài hồn tử sĩ được gióng lên trang nghiêm hòa quyện với ca từ trong ca khúc “Màu hoa đỏ” của nhạc sĩ Thuận Yến tạo nên một thứ âm thanh du dương, vang vọng khắp nghĩa trang Trường Sơn.
Có lẽ, đồng đội tôi phù hộ vì thế trời đang mưa thì vào đến nghĩa trang tự nhiên hửng nắng. Đoàn ra mộ các đồng đội ở khu vực Quảng Ninh có 82 liệt sĩ thì có 4 người nhập ngũ cùng ngày với tôi đó là: Chức, Chỉnh, Tính và Sự được xếp thẳng hàng cùng 1 dãy bên trái. Mỗi người 1 nén nhang thắp lên từng ngôi mộ mà lòng se lạnh, lệ rơi trên từng khuôn mặt. Những làn gió mát lạnh tràn vào tâm hồn. Tôi đoán rằng ở nơi cao xanh chắc đồng đội mừng lắm khi có đồng hương Quảng Ninh vào thăm.
Để đảm bảo lịch trình theo kế hoạch đoàn ra xe tiến theo quốc lộ số 9, đến cầu Đakrông dừng lại. Nơi đây chính tôi là người trực tiếp tham gia tính toán kỹ thuật kỹ lưỡng để đặt quả bộc phá trên 3 tấn mở đầu cho đợt tổng công kích, đoạn đường từ cầu Đakrông đến A Sầu, A Lưới do 2 Trung đoàn 6 và 529 đảm nhận. Khi quả bộc phá nổ xong mà cả đại đội 612 Trung đoàn 6 ăn mừng chiến công hôm đó là khẩu phần ăn, thịt, giò, trứng hộp của ngày hôm ấy được đem ra dùng cho bữa trưa bằng hết. Anh em nam được Tham mưu trưởng Sư đoàn 473 Đỗ Xuân Diễn tặng cho mỗi người 1 điếu thuốc lá Điện Biên. Mỗi người nữ được 1 chiếc kẹo bạc hà. Hạnh phúc nhất của cánh đàn ông là được hút trọn vẹn 1 điếu thuốc lá mà không phải chia nhau. Kể đến đây mà mọi người trong đoàn ai cũng lặng đi như sẻ chia bao gian khổ, vất vả với người lính Trường Sơn thuở ấy của chúng tôi.
Đoàn cựu chiến binh thăm lại chiến trường xưa chụp ảnh lưu niệm ở Cửa khẩu Lao Bảo. |
Xe lại tiếp tục bon bon trên quốc lộ 9 và đây rồi trạm xá Trung đoàn 515, cầu Rào Quán, ngã ba 68, Tà Cơn, Khe Sanh, Làng Vây, Lao Bảo, Quân y viện 9, v.v.. Đến địa điểm nào chúng tôi cũng hồi tưởng đến những chiến công huyền thoại làm nên chiến thắng đường 9 - Khe Sanh. Chiến dịch Lam Sơn 719 và bao chiến thắng khác vang dội làm rung chuyển cả Lầu Năm Góc, phá sản những âm mưu của Đế quốc Mỹ dùng trong chiến tranh Việt Nam như: Chiến tranh cục bộ, Việt Nam hóa chiến tranh mà phía Mỹ tưởng chừng thực hiện được dễ dàng.
Buổi chiều đoàn chúng tôi vào dâng hương các liệt sĩ ở nghĩa trang huyện Hướng Hóa - Khe Sanh. Nơi đây, có 3 khu mộ, hàng ngàn mộ “chưa biết tên” và nếu có tên thì không có địa chỉ, quê quán. Bài thơ khóc: “Khoa ơi” của Đoàn Duy Ái người bạn đồng niên, đồng môn của liệt sĩ Nguyễn Đăng Khoa được đọc lên bên tượng đài khói hương nghi ngút, tỏa trong nắng chiều hòa vào nước mắt và những tiếng nấc nghẹn ngào, bi thương. Chúng tôi xót thương các liệt sĩ đồng đội của chúng tôi khi sinh ra có tên bố, mẹ đặt cho và có quê quán, địa chỉ vậy mà hy sinh thì chẳng thấy có tên, có quê hương, làng, xã. Chắc đồng đội của chúng tôi vui lắm khi có bạn đồng niên, đồng hương đồng đội cũ hôm nay đến thăm. Thi thoảng cơn gió chiều tràn vào lạnh buốt tâm can. Mọi người ai cũng dùng điện thoại hoặc bút ghi lại những sự kiện để làm tư liệu thực tế phục vụ cho sáng tác của mình sau chuyến đi về.
Tối 14/3, chúng tôi có buổi giao lưu thơ, ca với chủ đề “Trường Sơn thời để nhớ” giữa đoàn Quảng Ninh và Hội Truyền thống Trường Sơn tỉnh Quảng Trị. Những vần thơ, bài ca viết về đề tài Trường Sơn của các nhạc sĩ, thi sĩ tên tuổi được vang lên trong buổi giao lưu. Một lần nữa âm vang Trường Sơn lại vang vọng núi rừng đánh thức các linh hồn đồng đội về chia vui với mọi người. Chúng tôi dành tặng 5 suất quà cho 5 chiến sĩ Trường Sơn có hoàn cảnh khó khăn ở huyện Hướng Hóa. Món quà tuy nhỏ về vật chất nhưng lớn lao về tinh thần được nhân dân đánh giá rất cao về giá trị nhân văn của những người lính Trường Sơn đến từ đất mỏ Quảng Ninh.
Sáng hôm sau xe chúng tôi lại xuôi về Đông Hà. Trời mưa lất phất nhòa cả kính xe. Có lẽ đồng đội của chúng tôi cảm động mà không nói lên thành lời mà phải cầu trời khóc hộ. Tôi lẩm nhẩm đọc một bài thơ mới viết: “Sáng nay mưa lạnh gió nguồn/ Chia tay đồng đội lên đường về xuôi/ Người đi, kẻ ở xa vời/ Bóng ai thấp thoáng cuối trời Khe Sanh”.
Khoảng 8 giờ sáng đoàn chúng tôi vào dâng hương tại thành cổ Quảng Trị. Nơi đây mỗi tấc đất, mỗi dòng sông đều thấm máu xương của các chiến sĩ ta trong chiến dịch 81 ngày đêm đỏ lửa năm 1972. Khi người hướng dẫn viên đọc trích đoạn thư của anh Lê Văn Huỳnh gửi về gia đình, mẹ và vợ, lòng chúng tôi se lại.
Vẫn biết chiến tranh là có hy sinh nhưng với bản chất quả cảm của người lính sẵn sàng cống hiến cho Tổ quốc, non sông rất thanh thản, bình dị mà cao thượng, rất đời thường nhưng lớn lao. Đoàn chúng tôi nghiêng mình kính cẩn trước vong linh những chiến sĩ thành cổ Quảng Trị đã đem lại hòa bình cho dân tộc, cho non sông đất nước ta. Cầu Hiền Lương được nối lại, sông Bến Hải không còn bên lở, bên bồi là do công lao to lớn của các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống hôm qua trên mảnh đất này.
Qua cầu Hiền Lương, đoàn chúng tôi dừng lại bên cây cầu và sông Bến Hải, nơi chia cắt tạm thời hai miền Nam - Bắc sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết năm 1954. Qua 21 năm chia cắt đôi bờ, chúng ta đã chứng kiến bao cảnh người Nam, kẻ Bắc. Chiều chiều đứng bên này nhìn sang bên kia đôi bờ ngắn thôi sao mà xa cách dài vậy. Cùng một dòng máu đỏ, da vàng, con cháu lạc hồng mà sao xa vời vợi, câu hò chung một ngữ điệu mà sao lại bị ngăn cách, chia lìa. Bước chân trên chiếc cầu vẫn còn hai nửa màu xanh, vàng mà lòng chúng tôi xót xa khi nghĩ về một quá khứ bi tráng và tôi thầm nghĩ hôm nay nhịp cầu được nối lại đôi bờ, sông Bến Hải được nghe điệu hò thanh bình là nhờ công lao của triệu triệu người chiến sĩ, người dân ngã xuống trên mảnh đất thân yêu Vĩnh Linh để đem lại độc lập tự do cho dân tộc, trong đó có một phần đóng góp nhỏ bé của chúng tôi những người lính Trường Sơn năm nào.
Địa điểm mà đoàn cần phải đến nữa là ngã ba Đồng Lộc. Nơi đây 10 cô gái thanh niên xung phong đã anh dũng hy sinh khi đang làm nhiệm vụ trong một ngày định mệnh 24/7/1968. Mà giờ đây họ đã đi vào cõi bất tử. Đoàn dâng hương ở khu di tích chung, sau đó ra dâng hương từng nấm mộ của các chị ở nghĩa trang 10 cô gái. Những thành viên trong đoàn ai cũng nghẹn ngào xúc động không nói lên lời, nước mắt tuôn trào. Cây Bồ Kết đã cao to, hàng ngày tỏa bóng mát và đem hương thơm thăng hoa cho các chị vì ngày hôm đó đi vào cõi vĩnh hằng chưa được tắm gội. Chiếc ba lô, chiếc ăng-gô, cuốn sổ ghi nhật ký, tấm áo nâu mẹ mới vá hôm nào, đôi dép cao su giản dị vẫn được trưng trong bảo tàng giờ đã là những kỷ vật chiến tranh vô giá.
Đất nước chúng ta, Tổ quốc thân yêu của chúng ta là vậy. Khi có giặc đến nhà thì cả gái, trai đều đứng lên đánh giặc. Họ đã tạc vào đất nước những tượng đài sừng sững, những dáng đứng Việt Nam và họ đã làm nên đất nước muôn đời.
Qua 6 ngày 5 đêm trở về chiến trường xưa chúng tôi càng hiểu thêm về những giá trị cuộc sống của người chiến sĩ, hiểu thêm về những địa danh, những ngọn núi, con sông những người con ưu tú của dân tộc đã anh dũng hy sinh và đã trở thành anh hùng bất tử. Đồng thời, qua chuyến đi này, chúng tôi nhất là các văn nghệ sĩ hiểu thêm về chiến tranh, về người lính tham gia chiến trận trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của toàn dân tộc mà lâu nay họ chỉ hiểu qua những thước phim của các kênh truyền thông hoặc trên trang sách, báo hay nghe cha anh kể lại. Từ thực tế sinh động, họ cảm nhận được tính chiến đấu, tính kỷ luật chiến trường của người lính để thắp lên ngọn lửa từ trái tim, từ gan ruột gây cảm hứng, tạo thành động lực tiếp tục cầm bút viết lên những vần thơ, những áng văn, những bản nhạc đóng góp cho văn học nghệ thuật Trường Sơn thêm phong phú, đa dạng. Đồng thời tôi nghĩ đây cũng là món quà tinh thần để tri ân những liệt sĩ đã hy sinh ở chiến trường Trường Sơn và dâng lên Kỷ niệm 60 năm Ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn năm 2019.
Bút ký của Trần Quang Thanh
Liên kết website
Ý kiến ()