Tất cả chuyên mục
Thứ Ba, 23/04/2024 22:30 (GMT +7)
Bạch Đằng tráng khúc
Chủ nhật, 17/07/2016 | 12:25:32 [GMT +7] A A
Bao giờ cũng vậy, dù đi phà ngang sông hay xuôi thuyền dọc theo dòng Bạch Đằng thì tôi vẫn mường tượng rằng mình đang được nghe một bản trường ca hùng tráng. Tôi tìm mãi xung quanh chẳng có ai chơi đàn, cũng không có thiết bị âm nhạc nào trên thuyền cả mà sao vẫn nghe văng vẳng bên tai...
Mênh mông dòng sông Bạch Đằng. |
DỮ DỘI...
Nhận nước từ sông Giá và sông Đá Bạc, dòng Bạch Đằng chảy qua huyện Thuỷ Nguyên (Hải Phòng) và TX Quảng Yên (Quảng Ninh). Nếu ví Bạch Đằng là một “bản giao hưởng của những hợp âm” thì nó có hai “đơn âm” chính là sông Chanh và sông Rút. Dòng chính dài cỡ chừng 20km, đổ ra cửa Nam Triệu, xưa gọi là cửa Bạch Đằng. Hai chi lưu là sông Chanh dài khoảng 18km, đổ ra ở cửa Lạch Huyện và chi lưu sông Rút (còn gọi là sông Nam) dài khoảng 16km, hợp với dòng chính đổ ra cửa Nam Triệu.
Dòng chảy mênh mông, sóng vỗ trắng xoá như mây nên người xưa gọi Bạch Đằng là sông Vân Cừ. Sóng nước Bạch Đằng đã reo thành bản nhạc trải dài suốt ngàn năm lịch sử. Trong sách “Dư địa chí”, Nguyễn Trãi từng mô tả: “Sông Vân Cừ rộng 2 dặm 69 trượng, sâu 5 thước, núi non cao vót, nước suối giao lưu, sóng tung lên tận trời, cây cối lấp bờ, thật là nơi hiểm yếu”.
Người bình dân ở Quảng Yên xưa không thích gọi tên con sông là Vân Cừ theo lối chữ Hán xa lạ ấy. Bạch Đằng họ gọi là sông Rừng cùng với bến đò Rừng, giếng Rừng, chợ Rừng và sau này là bến phà Rừng nữa.
Ca dao vùng này cho thấy, người Quảng Yên yêu mến sông nhưng cũng sợ cái hiểm trở của con nước sông Rừng: “Con ơi nhớ lấy lời cha/ Gió nồm, nước rặc (nước thuỷ triều chảy mạnh xuống - PV) chớ qua sông Rừng”. Bởi vậy, chắc hẳn có ai bơi qua được sông lúc nước xuống chảy xiết thì đều thành anh hùng. Tôi nhớ đến chiến sĩ Nguyễn Công Bao quê ở xã Cẩm La chia tay người vợ mới cưới, bơi qua sông Bạch Đằng vào Nam chiến đấu, hy sinh được tuyên dương Anh hùng LLVTND. Người ta cũng lấy tên anh để đặt tên đường và hình dáng anh được chọn làm nguyên mẫu để dựng tượng đài đặc công rừng Sác.
Cách bến Rừng một đoạn, bên đền thờ Trần Hưng Đạo có ngôi đền thờ một người phụ nữ. Tương truyền, cụ đã mách nước cho Trần Hưng Đạo đánh giặc. Làm theo lời bà cụ, Hưng Đạo Vương cho cắm cọc xuống luồng lạch của con sông. Khi thuỷ triều lên, Trần Hưng Đạo vờ thua chạy, địch hăm hở đuổi theo. Vừa lúc đó thuỷ triều rút, từ hai bên bờ, quân nhà Trần tấn công ra. Địch hoảng sợ tháo lui, nhưng khốn nỗi lúc ấy nước đã xuống dưới mức cọc, sông như bãi chông. 400 chiến thuyền va vào cọc mà chìm, 3 vạn quân Nguyên đã không có cơ hội quay về.
Thắng trận, Trần Hưng Đạo quay lại tìm ân nhân thì chỉ thấy một đống mối đùn lên rất to. Cho rằng đấy là mộ bà cụ, Hưng Đạo vương đã cảm khái rơi lệ về triều dâng sớ xin nhà vua Trần thi ân cho bà cụ và lập đền thờ ngay tại bến sông. Đến tận bây giờ lịch sử cũng không có dòng nào chép về lai lịch của bà cụ. Còn dân gian thì quen gọi cụ là Vua Bà. Không có tư liệu lịch sử nào để kiểm chứng cả nhưng tôi vẫn tin vào câu chuyện một người phụ nữ bình dân hiến kế cho một thống lĩnh quân đội đánh giặc. Tôi tin bởi đó là bài ca đẹp về chiến lược chiến tranh nhân dân, dựa vào sức mạnh lòng dân, một vốn quý của dân tộc ta.
Nói thêm về cái hiểm yếu của con sông, lại nhớ ở cửa biển có một ngã rẽ thắt lại gọi là sông Rút. Hai bên sông um tùm cây cỏ. Tôi có cảm giác đoạn sông rất nông. Nước lại chảy mạnh. Chắc hẳn các cụ xưa kia gọi là sông Rút vì nước rút nhanh phơi bờ bãi, lòng sông nông tàu bè đi vào dễ mắc cạn. Nếu có thuỷ chiến ở đoạn này, nước sông thì rút còn chiến thuyền phương Bắc muốn rút nhanh ra biển về cố quốc cũng lực bất tòng tâm.
Con sông hiểm yếu này đã là niềm tự hào của dân tộc. Bởi vậy, vì nhắc đến sông Bạch Đằng mà Giang Văn Minh (1573-1637) thiệt mạng khi đi sứ nhà Minh. Chuyện kể rằng, đại thần nhà Minh ra một vế đối hống hách: “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục” (Cột đồng đến nay, rêu đã mọc xanh) để gợi lại câu chuyện Mã Viện sang đàn áp khởi nghĩa Hai Bà Trưng, tịch thu trống đồng để đúc chiếc cột đồng với lời tuyên bố cột đồng mà đổ thì Giao Chỉ sẽ bị diệt vong. Giờ cột đồng đã rêu mọc xanh, ám chỉ không bao lâu nữa mà gẫy, Giao Chỉ sắp diệt vong.
Nghe vậy, Giang Văn Minh tức khí đối lại: Đằng giang tự cổ huyết do hồng (Sông Bạch Đằng từ xưa máu còn đỏ), ý muốn nhắc nhở nhà Minh về những bài học đắt giá của kẻ xâm lược. Vì vế đối đó mà ông bị nhà Minh giết. Bởi thế, khi ghé vào thăm khu di tích Tràng Kênh (gồm: Đền thờ Ngô Quyền, đền thờ Lê Đại Hành, đền thờ Trần Hưng Đạo ở ven sông, thờ những người đã có chiến thắng lẫy lừng trước quân phương Bắc xâm lược), để lật giở từng trang lịch sử, tôi nghĩ, vế đối phải đánh đổi bằng chính sinh mạng của Giang Văn Minh đến tận mai sau cũng vẫn còn nguyên giá trị.
Hát dân ca trên sông Bạch Đằng. |
VÀ DỊU ÊM...
Đã từ lâu rồi, người Quảng Ninh muốn sang Hải Phòng chẳng cần phải đi đò nữa chứ chưa nói đến chuyện bơi sông như Nguyễn Công Bao năm xưa. Đã có con phà êm đềm giờ lại sắp có cây cầu Bạch Đằng hiện đại bắc ngang sông trên tuyến cao tốc Hạ Long - Hải Phòng. Những công trường sôi động đang thi công trên sông làm tôi mường tượng ra tương lai rất gần thôi, dòng người và xe cộ sẽ lao vun vút qua cầu. Rồi đây, từ Hạ Long đi Hải Phòng qua con đường này để về quê tôi chỉ mất hơn nửa giờ chạy xe.
Nghĩ vậy, nhưng tôi đã bắt đầu thấy nhớ những chuyến phà. Bởi vậy, tôi thường tranh thủ đi phà để thấy cửa biển Bạch Đằng từ xa xa hiện ra mênh mông trời nước. Tôi lại bâng khuâng nhớ những năm tháng học trò chỉ mường tượng về con sông qua bài giảng của cô giáo về bài “Bạch Đằng hải khẩu” của Nguyễn Trãi…
Thuyền tôi chầm chậm qua bến Ngự. Ban đầu tôi lấy làm lạ bởi cứ nghĩ chỉ riêng cố đô Huế mới có Bến Ngự, không ngờ ở Quảng Ninh mình cũng có. Không phải là Bến Ngự - Sông Hương mà là Bến Ngự - Sông Chanh. Tương truyền, một lần duyệt quân trên sông Bạch Đằng ra Hải Đông, hoàng đế - thi sĩ Lê Thánh Tông đã qua đây, sai lập hành dinh trên một bến nhỏ. Ban đêm thấy trăng thanh gió mát, nhà vua liền ngâm ngợi làm thơ. Cũng từ đó mà dân gian quen gọi bến sông đó là Bến Ngự. Còn nước sông trong xanh đẹp như tranh thuỷ mặc nên mới gọi sông Tranh. Lâu dần, thổ âm địa phương đọc chệch nên sông Tranh mới hoá sông Chanh.
Có lẽ chẳng riêng gì Lê Thánh Tông, đứng trước dòng Bạch Đằng văn nhân thi sĩ xưa nay khó mà cầm lòng cho được. Bởi thế, khá nhiều người cùng tán đồng cho rằng, dòng sông Bạch Đằng chính là “miền sáng trăng thơ”, là ngọn nguồn “phù sa” màu mỡ cho “cánh đồng” thơ ca, trong đó có nhiều bài đóng đinh vào lịch sử văn học dân tộc. Hầu như các văn nhân, tài tử nổi danh đều ít nhất một lần dạo bước Bạch Đằng như: Vua Lê Thánh Tông, Trần Minh Tông, Trần Anh Tông, Phạm Sư Mạnh, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, nữ sĩ Hồ Xuân Hương v.v.. Cũng vì muốn thu phục nhân tâm mà các vua chúa cũng nhiều lần đi kinh lý xứ An Bang bằng đường sông. Và họ ít nhiều đều để lại thơ ca, du ký, nhiều bài đã được khắc lên vách đá.
Ông Lê Duy Thái, người nhiều năm sống ở vùng đất Quảng Yên, kể cho tác giả nghe những câu chuyện huyền thoại về dòng sông Bạch Đằng. |
Ông Lê Duy Thái, người đã nhiều năm gắn bó với vùng đất Quảng Yên, đang kể chuyện về dòng sông cho tôi nghe bỗng dừng lời lẩm nhẩm đọc một câu thơ cũ: “Bồng bềnh như thực như mơ/ Bạch Đằng bao chuyện bạc phơ mái đầu”. Giọng ngâm thủ thỉ của ông cùng tiếng sóng nước như đưa tôi về huyền thoại xa xăm. Nghe như giọng đọc kia không còn là giọng của ông nữa mà như ở nơi nào đang vọng về, hay giọng ngâm của một văn nhân thời trước còn lẩn khuất với bờ lau bến cũ.
Ông bảo, quả đúng như vậy, Bạch Đằng là kho chuyện kể vô tận mà người đời sau còn muốn nghe mãi. Đã nhiều buổi hoàng hôn, ông chống gậy ra bến sông nghe con nước ì oạp vỗ mà mường tượng rằng lời tiền nhân đang vọng về. Lời kể có khi rất hào hùng nhưng cũng có khi đầy bi tráng. Chiến tranh mà có cả bài ca chiến công oai hùng lẫn khúc hát bi thương.
Từ bến Ngự nếu ngược dòng về phía thượng nguồn, người ưa hoài niệm sẽ muốn ghé vào Hang Son tìm thơ Phạm Sư Mạnh trên vách đá, muốn đến Phương Nam ăn vải chín sớm. Người ta bảo rằng cứ để cái vị ngọt của vải Phương Nam tan dần trên đầu lưỡi sẽ nhận ra giá trị của phù sa sông Bạch Đằng. Có lẽ, do phù sa quá mỡ màu đã đốc thúc sự sinh trưởng của cây, tăng tốc quá trình đơm hoa, kết trái để vải nơi này chín sớm hơn vải thiều Thanh Hà và Lục Ngạn cả tháng trời.
Thuyền tôi chạy rất chậm như thể đang lững lờ trôi trên sông Bạch Đằng. Tôi băn khoăn tự hỏi từ đâu mà có những cái tên ven sông như: Cái Tráp, Lạch Huyện, Quỳnh Biểu, Cống Mương v.v..
Phía bên kia là con đê Hà Nam uốn lượn có chu vi mấy chục cây số. Đê bao bọc những xóm làng, bảo vệ ruộng đồng, ô đầm nuôi tôm nuôi cua cá của xã Tiền Phong, Liên Vị, Nam Hoà. Tôi đi thuyền nan vượt sông Rút để sang khu vực đầm nhà Mạc. Ông Hoàng Văn Chung, một ngư dân ở Nam Hoà sang đây nuôi tôm bảo, đây là khu vực Chương Cồn vốn hoang vu lắm. 20 năm trước ông vượt sông sang đây be bờ đắp đập nuôi tôm cá. Ở đây, không điện, không hát hò, karaoke, chẳng có bạn bè, ông nhớ làng nhớ xóm, nhớ tiếng người quá ông ra sông nghe tiếng cá quẫy, cá đớp mồi, tiếng sóng vỗ mạn thuyền để giải khuây. Những thanh âm đó là khúc nhạc của riêng ông. Chỉ thiếu nó có một ngày ông không chịu nổi.
THAY LỜI KẾT
Ông Chung bảo với tôi rằng sông Bạch Đằng rộng thật nhưng luồng sâu thì hẹp mà đa phần chỉ là cồn bãi, chương, đầm lầy. Sự ưu ái của con sông đã cho người Hà Nam nhiều đồng bãi phì nhiêu, ao đầm thoáng rộng. Có được điều đó là do sự phân nhánh của sông Bạch Đằng ra sông Chanh và sông Rút. Sông ôm lấy những bờ bãi, ao đầm. Còn con đê thì ôm lấy làng đảo, con đê mà 19 vị tiên công đã đắp những viên đất đầu tiên vào thế kỷ thứ 15. Nhờ có bàn tay, khối óc, mồ hôi và cả xương máu của các vị tiên công, những cư dân kinh thành Thăng Long xưa đi quai đê lấn biển, mới có làng đảo Hà Nam trù phú như ngày hôm nay. Tạm biệt dòng sông lịch sử, tôi đi trên con đê Hà Nam để trở về, vừa đi vừa ngẫm lại lời ông Chung thấy quả là chí lý.
Bút ký của PHẠM HỌC
Liên kết website
Ý kiến ()