Tất cả chuyên mục
Thứ Năm, 25/04/2024 01:15 (GMT +7)
Để ngọn lửa lòng nhân ái mãi sáng
Thứ 2, 11/01/2016 | 05:43:19 [GMT +7] A A
Trại phong giờ chỉ còn lại 8 người, thời gian và bệnh tật đã lần lượt tiễn đưa họ về với tổ tiên. Khu Trại phong vốn đã quạnh quẽ giờ trông càng cô quạnh hơn. Thế nên mỗi khi có người đến thăm, Trại phong vui như đón người thân ở xa về.
Cuộc gặp mặt cảm động
Chiếc xe ô tô của Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Quảng Ninh vất vả bò trên những đoạn đường gồ ghề sỏi đá đưa tôi cùng các anh chị ở Trung tâm đến với Trại phong (tên thường gọi của Khu điều trị nội trú bệnh nhân phong) thuộc Trung tâm Phòng chống bệnh xã hội tỉnh. Trại phong nằm lọt thỏm giữa những ngọn đồi lúp xúp cây mua và cỏ dại, theo địa giới hành chính thì nơi đây thuộc địa phận thôn Động Linh, phường Minh Thành, TX Quảng Yên, nhưng ngoài khu vực nhà ở của cán bộ Trung tâm, và 8 gian nhà của bệnh nhân phong, quanh đây chẳng có một ngôi nhà nào nữa.
Khu nhà ở của bệnh nhân phong êm đềm trong vườn cây. |
Vừa đi, bác sĩ Ninh Văn Chủ (Giám đốc Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh, bác sĩ Chủ đã có gần 4 năm làm Giám đốc Trung tâm Phòng chống bệnh xã hội tỉnh, đơn vị chủ quản của Trại phong này) vừa giới thiệu cho chúng tôi lịch sử của khu Trại phong. Theo anh, Trại phong được thành lập từ những năm 1967 nhằm điều trị cho những người bị bệnh ở khu vực Đông Bắc, ngoài ra một số bệnh nhân ở các tỉnh như Vĩnh Phúc, Lạng Sơn, Bắc Ninh cũng đến điều trị ở đây. Những năm trước Trại phong có khá đông bệnh nhân, khoảng trên dưới 40 người, nhưng hiện giờ chỉ còn lại 8 người. Bệnh nhân ít tuổi nhất cũng đã ngót nghét 70 tuổi, người nhiều nhất đã trên 80 tuổi.
Xe vừa xịch đỗ, nghe tiếng chào hỏi của bác sĩ Chủ, không ai bảo ai các cụ đã ùa ra, tay bắt mặt mừng. Cuộc “hội ngộ” thật cảm động. Cụ ông, Trần Văn Thỉnh, một trong những người cao tuổi nhất ở Trại phong cứ nắm tay bác sĩ Chủ lắc lắc “sao lâu không thấy ông Giám đốc về chơi, chúng tôi mong ông lắm”; “đầu năm tôi vừa về chơi với các cụ đấy thôi, dạo này cơ quan nhiều việc nên ít khi xuống với các cụ được. Với lại các anh ở Trung tâm Phòng chống bệnh xã hội vẫn đến với các cụ thường xuyên mà” - bác sĩ Chủ trả lời. Quây quần trong phòng tiếp khách của trại, chủ và khách tíu tít chuyện trò. Bác sĩ Chủ hỏi thăm sức khoẻ từng cụ, nghe họ tỉ tê đủ thứ chuyện hàng ngày, từ chuyện mấy giếng nước mà ông Giám đốc xây cho mùa đông này hơi cạn, đến cây na trước cửa do Đoàn Thanh niên Trung tâm trồng vụ này quả ít quá; đến nhờ có ông Giám đốc lo cho hiện chúng tôi đã có thẻ bảo hiểm y tế, lại được xếp vào diện hộ nghèo nên bây giờ ốm đau phải đi bệnh viện không còn phải lo nộp viện phí, thuốc men nữa… Qua những câu chuyện trao đi đổi lại giữa chủ và khách xem chừng ông Giám đốc Chủ là vị khách “đặc biệt” của gia đình Trại phong này.
Xen giữa cuộc chuyện trò, chị Nguyễn Thị Thu, nhân viên y tế của Trại phong kể cho tôi nghe cách đây trên chục năm, Trại phong vất vả và thiếu thốn rất nhiều. Nơi ở của bệnh nhân tuềnh toàng, không điện lưới, nước khan hiếm, khi bệnh nhân qua đời không có nổi tấm bia ghi tên trên mộ… Năm 2005, khi bác sĩ Chủ về làm Giám đốc Trung tâm Phòng chống bệnh xã hội tỉnh đã cho xây lại khu nghĩa địa của Trại phong, đồng thời xây bia, tìm và ghi tên lên các tấm bia mộ để người thân của họ sau này có thể tìm được phần mộ người thân của mình. Bác sĩ Chủ đã ngược xuôi vận động quyên góp để khoan giếng lấy nước sạch cho khu Trại phong, xây nhà riêng cho từng bệnh nhân, mua máy phát điện, rồi xin kéo điện lưới… Đến nay Trung tâm được khang trang như thế này cũng là nhờ công lao của bác sĩ Chủ rất nhiều.
Mỗi khi có khách đến thăm, Trại phong vui như đón người thân ở xa về. Trong ảnh: Bác sĩ Ninh Văn Chủ và các cụ ở Trại phong trong buổi gặp mặt. |
Mái ấm của những mảnh đời bất hạnh
Bà Hoàng Thị Lịch quê ở Đình Lập (Lạng Sơn), năm nay tròn 76 tuổi. Quê hương với bà giờ chỉ còn là những ký ức xa xăm, bởi khi còn rất trẻ bà đã bị mắc bệnh và được gia đình đưa đến đây, từ đấy người thân của bà không một lần quay lại. Bà kể, quê bà người ta gọi bệnh phong là bệnh hủi, và nhắc đến bệnh hủi là người ta sợ, họ xua đuổi, xa lánh, kỳ thị ghê lắm. Đến cả người nhà còn sợ, không dám lại gần huống chi người dưng. Bà nói, người bị bệnh phong nỗi đau về thể xác một thì nỗi đau về tinh thần mười, bởi sự ghẻ lạnh, hắt hủi từ những người xung quanh. Ngày xưa, người nào bị bệnh phong coi như cầm chắc cái chết, không chết vì lở loét thì cũng chết vì sự hắt hủi. Chính vì vậy mà dù đã khỏi bệnh từ lâu nhưng bà Lịch đã ở lại đây không về quê nữa. Bà nói: Ở nơi này chúng tôi không lo đói, không sợ lạnh mỗi khi mùa đông đến, bởi ở đây chúng tôi được quan tâm, chăm sóc, đối xử như người bình thường… Trại phong như là gia đình lớn của chúng tôi.
Trong số những bệnh nhân có “thâm niên” lâu nhất của Trại phong, cụ ông Sú A Chiếng, là người nhiều tuổi nhất năm nay đã trên 80. Cụ Chiếng vào Trại phong từ trước năm 70, từ đấy đến nay, chưa một lần người thân của cụ đến thăm. Có lẽ ở đây, khái niệm được gặp người thân, được người thân đến thăm nuôi là điều không tưởng, tuy nhiên trong đôi mắt mờ đục của cụ Chiếng, tôi vẫn thấy hiện lên sự khắc khoải đến da diết khi tôi hỏi về gia đình, về nơi chôn rau, cắt rốn của cụ. Cụ Chiếng nói, lâu quá rồi không nhớ được quê hương nữa, chỉ biết nơi cụ ở là một ngôi làng nhỏ bao quanh là núi, tít tận miền biên viễn, quanh năm mây bay la đà và mùa đông rất lạnh. Ngồi kế bên cụ Chiếng, nghe cụ rủ rỉ chuyện nhớ quê, cụ bà Hoàng Thị Gái, mặt buồn rười rượi, mắt rưng rưng. Bà Gái quê tận Vĩnh Phúc, trước khi vào Trại phong, bà cũng có người thân, nhưng từ khi bước chân vào đây, họ hàng, anh chị em chưa một lần đến hỏi thăm. Điều an ủi là từ khi vào Trại phong, hai mảnh đời éo le gặp nhau, cụ Chiếng và cụ Gái về sống chung với nhau làm thành một gia đình nhỏ, nương tựa vào nhau, sưởi ấm cho nhau.
Bà Hoàng Thị Gái chăm sóc vườn na của Trại phong. |
Nến cong và lửa thẳng
Hầu như bệnh nhân phong ở đây đều không có con, vì thế khi cặp vợ chồng bệnh nhân Phạm Minh Công, Chìu Thị Múi sinh ra cô bé Phạm Thị Kim Thoa cả Trại phong lo lắng. Bây giờ y học hiện đại đã chứng minh bệnh phong không di truyền, nhưng vào năm 1976 bệnh phong vẫn là điều ám ảnh kinh hoàng. Vì thế khi cô bé Thoa sinh ra lớn lên lành lặn, mọi người đều nghĩ đó là phép màu, bởi lúc đó không ai nghĩ, cặp vợ chồng cùi hủi, xấu xí đó lại sinh ra được một tạo vật xinh xắn và lành lặn đến thế. Cô bé Thoa ngày đó giờ đã 40 tuổi, con lớn của cô năm nay đã học lớp 10 và rất giống mẹ, xinh xắn, học giỏi. Điều đặc biệt là chính Thoa sau này lại trở thành y tá chăm sóc cho những bệnh nhân ở Trại phong. Thoa kể, bố mẹ đều là bệnh nhân phong, em thấu hiểu nỗi bất hạnh của họ hơn ai hết, chính sự đồng cảm và thấu hiểu đó đã gắn bó cuộc đời Thoa với Trại phong. Học xong sơ cấp y, Thoa xin về Trại phong công tác, từ đó đến bây giờ công việc của cô là chăm sóc cho bệnh nhân, cùng với chị Thu hộ lý của Trung tâm nấu cơm, giặt giũ, kéo nước… cho những người không có khả năng làm việc.
Tôi hỏi chị Nguyễn Thị Thu, người đã gắn bó với công việc chăm sóc cho bệnh nhân phong gần 20 năm “Từng ấy năm gắn bó với người bệnh có bao giờ chị thấy sợ và buồn không?”. Chị Thu nói, hầu hết những người bệnh ở đây đều không lành lặn, di chứng của bệnh phong rất đáng sợ bởi nó huỷ hoại, tàn phá cơ thể người bệnh, khiến nhiều người khi nhìn thấy bệnh nhân phong đều có cảm giác ghê sợ. Ban đầu khi mới tiếp xúc với công việc ở đây em cũng có cảm giác đó, nhưng khi chứng kiến nỗi đau và sự bất hạnh của họ, tình thương đã khiến bọn em quên đi cảm giác sợ hãi. Bên cạnh đó nhờ học nghề y nên chúng em biết được căn bệnh này không đáng sợ như mọi người nghĩ, bệnh không dễ lây và hoàn toàn có thể chữa khỏi. Hàng ngày em vẫn cùng các cụ thổi cơm ăn chung, giặt giũ, chăm sóc cho các cụ đau yếu, ở đây chúng em gắn bó như một gia đình lớn vậy.
Chia tay Trại phong, chứng kiến sự ấm áp mà mọi người dành cho họ ở đây, tôi chợt hiểu vì sao mùa đông không lạnh ở Trại phong như cách nói của bà Lịch. Tôi chợt nhớ một lần xuống Trại phong, tình cờ gặp đoàn thiện nguyện của Giáo xứ Bắc Ninh. Khi tôi đến đoàn đang quây quần cùng bệnh nhân phong và hát cho họ nghe những bài ca ca ngợi cuộc sống bình yên, nơi thôn dã. Tôi không nhớ hết những lời ca đó nữa, chỉ nhớ được câu hát mà vị Cha xứ trong đoàn hát rất hay là “khi ta dâng tình yêu thương cho nhau, ta đã dâng cho đời đoá hoa nhân ái, để ngọn lửa lòng Nhân mãi sáng, cho trái đất này sẽ mãi được bình yên”.
Đặng Nhung
Liên kết website
Ý kiến ()