Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 29/03/2024 13:48 (GMT +7)
Chuyện một vị... đại tá “gàn”
Chủ nhật, 17/03/2013 | 05:20:07 [GMT +7] A A
Gần 40 năm trôi qua kể từ chiến thắng mùa xuân 1975 lịch sử, đất nước đã đổi thay rất nhiều, nhưng riêng ông vẫn hệt như ngày còn ở chiến trường, vẫn lối nói bỗ bã, cái cười hào sảng của “con nhà lính”, vẫn cái tâm tính vô tư “bất cần tiền” như cái thời còn đạn bom...
Ông là đại tá Nguyễn Văn Vỵ.
Đại tá Nguyễn Văn Vỵ (bên trái) và ông Nguyễn Ngọc Đàm (Nguyên Phó Tư lệnh Đặc khu Quảng Ninh, nguyên Chủ tịch Uỷ ban hành chính tỉnh Quảng Ninh) ôn lại tình đồng đội... |
KÝ ỨC MỘT THỜI BINH LỬA
Chỉ cần đi đến đầu phố Quang Trung (TX Quảng Yên), hỏi nhà ông Vỵ cựu chiến binh thì ai cũng biết. Gặp ông, đầu tiên là cái bắt tay rất chặt theo kiểu lính. “Cụ vẫn khoẻ chứ ạ?” - Tôi hỏi, ông đáp ngay: -“Tất nhiên là khoẻ rồi. Tớ còn định đạp xe xuống Hạ Long thăm anh em như mọi năm nữa cơ đấy”. Đã tiếp xúc với ông nhiều lần rồi nhưng mỗi khi nghe ông xưng hô “cậu, tớ” tôi vẫn thấy thinh thích... Ông vẫn giữ cái nét tếu táo theo kiểu “con nhà binh”, coi tôi như người bạn “bằng vai phải lứa” vậy. Ông bảo, lính tráng là thế; một khi đã là “chiến hữu” thì không bàn đến chuyện tuổi tác, cấp bậc... Ông cười, cái cười thật tươi khi kể lại những kỷ niệm về đồng đội cũ. Dường như, với ông những năm tháng chiến tranh ác liệt, hy sinh gian khổ đã hằn sâu vào ký ức. Mỗi khi nhắc về nó là ông thấy rưng rưng xúc động...
Mùa xuân này, quây quần bên những đồng đội còn sống, ông Vỵ lại càng nhớ những mùa xuân ở chiến trường, nhớ những đồng đội đã ngã xuống. Biết bao mùa xuân như thế đã đi qua trong cuộc đời ông, cuộc đời một người lính xông pha trận mạc. Đó là những mùa xuân đầy gian khổ, mất mát, hy sinh. Ông bảo, vẫn biết hy sinh là tất yếu của chiến tranh. Nhưng mỗi khi nghĩ về nó, vẫn không cầm lòng được, vẫn thấy xót xa... Rồi ông kể tiếp: “Có lần chúng tớ đang đi họp về thì vướng bom từ trường. Tớ nghe thấy một tiếng nổ lớn, chỉ kịp nằm xuống. Đứng dậy thì 5 đồng đội ở ngay trước mặt mình đã hy sinh. Người nát bươm vì những vết thương… Các cậu ấy còn quá trẻ!”. Kể đến đây, giọng ông như nghẹn lại. Hai khoé mắt người lính già rưng rưng. Ông bảo, đời ông đã nhiều lần chết hụt rồi. Đồng đội ông hy sinh để ông được sống, được hạnh phúc như hôm nay. Chỉ tiếc rằng, ngày xưa, bom đạn nhiều quá, vội chôn cất đồng đội ở trong rừng, ở đầm lầy v.v.. Giờ không phải ai cũng tìm được dấu tích, hài cốt...
Biết ông từng tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tôi tò mò hỏi ông về những kỷ niệm ngày ấy, ông hào hứng kể: “Lúc ấy, tớ đang là chỉ huy của Trung đoàn 271 (thuộc Sư đoàn 3, Quân đoàn 232). Đây là quân đoàn thứ 5 đánh vào Sài Gòn. Đơn vị của tớ được giao nhiệm vụ tham gia đánh khu vực Quận 3...”. Và ông khoe: “Cậu biết không, chính bọn tớ đã bắt được một tên đại tá chỉ huy trưởng ở Phước Long cơ đấy. Thế là bọn giặc còn lại cờ trắng ra hàng. Sau này, bọn tớ đưa chúng đi cải tạo, chỉnh huấn cả tháng trời rồi cho nó về thăm vợ con”...
CHẲNG MÀNG VẬT CHẤT, CHỈ HAM ĐI
Ngồi uống trà, nghe ông kể chuyện, thỉnh thoảng tôi lại ngắm nghía căn phòng giản dị của ông. Ông bà đang ở trên tầng 2 của một căn nhà do cô con gái ông xây. Hàng xóm của ông chép miệng bảo, ông đại tá từng vào sống ra chết, công trạng thế mà nay phải “ở nhờ” nhà con gái. Ông cười bảo: “-Thì có sao đâu, còn sướng hơn khối người không có nhà để ở!”.
Tôi hỏi ông sau 1975, sao ông không ở lại Sài Gòn, ông: “-Cậu không biết đâu, chiến tranh kết thúc rồi, không còn phải đánh đấm nữa thì thằng lính nào cũng chỉ muốn về gần nhà, gần vợ con thôi! Biết nguyện vọng ấy của tớ, cấp trên điều động tớ về đặc khu Quảng Ninh, làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 360. Tớ ra Móng Cái khoảng mười năm, từ 1979 đến 1990 thì nghỉ hưu...” .
Và mặc dù không còn phục vụ trong quân ngũ nữa, ông vẫn thường xuyên tìm lại đồng đội của mình, thành lập Ban liên lạc Sư đoàn 360, gặp gỡ và ôn lại những kỷ niệm một thời đã qua. Người ta còn nhớ mãi hình ảnh vị Chỉ huy trưởng Sư đoàn nay đã gần 80 tuổi nhưng đến ngày kỷ niệm hàng năm vẫn lạch cạch đạp xe từ Quảng Yên ra Hạ Long để tập hợp đồng đội của mình. Nghe ông nói, giọng nói hào sảng, ấm áp, nhìn những cái bắt tay siết chặt và nụ cười hiền của ông, tôi hiểu, dù ở thời nào, chiến tranh hay hoà bình thì ông vẫn có trong mình một sức mạnh gắn kết. Ông kể, những cậu Cho, cậu Nhờ, cậu Phong... - đồng đội cùng chiến đấu với ông giờ còn sống trở về - thỉnh thoảng gặp nhau là sướng lắm. Rồi như muốn chứng minh điều đó, ông rủ rê: “Chú mày không tin, hôm nào theo tớ mà xem”. Thế nhưng, chẳng cần phải theo ông tôi cũng đủ biết. Không vui thì sao mà ông vận động anh em vào lắm hội đến vậy. Nào là Hội cựu chiến binh, hội Cựu lính Điện Biên, lính Trường Sơn, Hội nạn nhân chất độc da cam, rồi Ban liên lạc Sư đoàn 360, Sư đoàn 3, Trung đoàn 271 v.v.. Ông khoe ông còn làm hội trưởng của rất nhiều hội nữa. Vì thế cứ suốt ngày lọc cọc một chiếc xe đạp đi đến nhà đồng đội. Chỗ nào gần là ông cuốc bộ luôn. Thương ông mệt, có người ngăn ông. Nhưng tính ông là vậy, đã làm gì là làm cho kỳ được, đố ai cản nổi. Đố ai bảo được ông không tụ tập hội hè. Ngần ấy cái hội nên cơ man nào là họp hành, gặp gỡ, giao lưu. Nhìn ông, tôi nói đùa: -“Ông còn có hội đánh cờ nữa mà, cái hội này cũng mạnh đấy chứ”. Ông cười rất vui: -“Đúng thế, chiều nay tớ vừa đi về đấy. Phải giữ cho tinh thần lạc quan vui vẻ. Cậu thấy đấy, tướng Giáp sống đến hơn trăm tuổi, tớ nghĩ cũng một phần là nhờ điều đó đấy thôi. Tớ mới ngoài 80, ăn thua gì...”. Đánh cờ với ông là một cái thú. Nó còn làm ông nhớ lại lúc đang cầm quân ở chiến trường. Nói đến đây, bà vợ ông ở trong nhà cũng phải phụ hoạ vào: “Ông ấy thì chỉ giỏi đánh trận thôi. Ngoài đời ông ấy lơ mơ lắm”. Mấy chục năm chiến đấu, nào với bom đạn, chất độc da cam, sốt rét rừng, đói khát nhưng ông vẫn vượt qua. Lúc còn chiến đấu cũng như lúc nghỉ hưu, dường như ông vẫn chỉ là một người lính chỉ huy của trận mạc. Ai cũng bảo ông sống quá lý tưởng, chẳng thức thời tí nào. Chăm sóc cha mẹ và nuôi dạy đàn con ông dựa vào vợ. Công to việc lớn trong nhà cũng vợ. Xây nhà thì con lo. Tiền bạc ông cũng chẳng biết cách chi tiêu. Giá cả ông chẳng am tường. Hễ đi mua cái gì là bị hớ. Có tiền lương hưu nhưng ông vẫn tằn tiện, dành một phần mang đi hỗ trợ đồng đội, cho những người khó khăn...
Còn nhớ, trước kia, người ta định phân cho biệt thự ở Sài Gòn, Đà Lạt, phân đất cho ở Hòn Gai, Bãi Cháy rồi Hà Nội v.v.. ông cũng chỉ gạt đi: “Về quê có đất ông bà tổ tiên để lại cho đủ xây nhà rồi. Để đất ấy cho người khác khó khăn hơn”. Vậy nên mới có người bảo ông gàn, không kiếm mảnh đất cho mình thì cũng để cho con cái chứ, ông có tới những bốn đứa con cơ mà! Hay như công việc của con cũng thế. Ông để cho chúng tự lo, chẳng chạy vạy, cậy nhờ cho đứa nào cả. Lúc còn đương chức, có chỉ tiêu, cơ hội công việc gì đó ngon lành là ông để dành hết cho con em của đồng đội. Còn ông, ông mải lo cho cái thú ham đi của mình. Cứ hở ra là ông đi. Mở mắt ra, bước chân xuống giường là đi. Đi cho đến khi phố xá lên đèn, sực nhớ là cái bụng đói thì lững thững trở về. Hỏi ông, sao không ở nhà có việc gì thì làm cùng bà cho vui. Ông cười cười, bảo làm việc nhà chẳng quen bằng việc lính. Ông đưa tay ra cho tôi xem rồi nói như lý giải: “Đấy cậu nhìn xem tay tớ bị run, địch nó bắn vào tay, lại bị rạn xương chẳng làm được gì. Rõ khổ hồi ở chiến trường cầm súng ống, đánh bao nhiêu trận không sao. Giờ về rồi chẳng cầm nổi cái đũa mà ăn. Cứ lấy thìa mà xúc thôi. Thế nhưng cái chân thì khoẻ. Đi lại vô tư. Có lẽ cái số tớ là số ham đi mà!”. Quả thực, ai sống gần ông cũng đều bảo, ông chỉ giỏi đi thôi chứ việc nhà ông chẳng biết làm gì cả. Ngay chuyện ăn uống hàng ngày ông cũng chẳng biết. Hỏi ông, thì ông bảo ăn uống đơn giản kiểu lính nó quen rồi. Vợ mà ở nhà thì ông còn ăn uống đàng hoàng chứ cứ sểnh vợ ra là ông ăn mì tôm. Trứng thì ông mua sẵn để đấy đến bữa là luộc ăn. Chẳng biết có thực hay không mà họ nói vui rằng đến bóc một củ hành ông cũng chẳng biết bóc(?). Kể cũng là hiếm người như ông vây!
Giờ đây, chỉ những ngày mưa, bão ông mới chịu bó gối ở nhà. Ông mang những tấm ảnh cũ, mang những tấm huân huy chương ra ngắm. Có đến 17 tấm huân chương các loại. Thế nhưng, ông chưa nhận một đồng tiền nào cho mỗi tấm huân chương. Hỏi ông, có thắc mắc gì không, ông cười, mình sống mà về được là vui rồi, đất nước còn nghèo lắm, cũng chẳng đòi hỏi mà làm gì. Họ đang xét, cứ kệ đi. “-Tớ đi đánh nhau bao nhiêu năm không chết mà được trở về ấm êm thế này còn hạnh phúc gì bằng. Huân chương để đấy, bỏ vào hộp thôi. Cũng đầy cả hộp rồi” - Ông Vỵ cười, bảo với tôi như thế.
THAY LỜI KẾT
Ngồi nghe ông đại tá kể chuyện chiến trường, tôi khó lòng mà dứt ra được, có lẽ cũng vì cái sự hào hứng, phấn khích khi có người chia sẻ của ông. Bắt tay tạm biệt tôi, ông vẫn không quên nhắn nhủ: “Sắp tới bọn tớ kỷ niệm ngày thành lập đơn vị, cậu xuống đi cùng cho vui. Ngày mai tớ đến nhà đồng đội để thông báo kế hoạch rồi đấy. Các cậu ấy còn bận làm ăn, tớ rỗi rãi hơn nên tớ đi...”. Nhận lời ông, tôi trở ra về, lòng thầm nghĩ: Trong cái thời buổi xô bồ bon chen như hiện nay mà ông vẫn vậy, vẫn như anh lính thời chiến trường thì quả là... gàn! Chỉ có điều càng thấy ông gàn tôi càng thêm kính trọng ông hơn!
Huỳnh Đăng
Liên kết website
Ý kiến ()