Tất cả chuyên mục
Thứ Bảy, 20/04/2024 12:09 (GMT +7)
Trăn trở làng rèn...
Chủ nhật, 25/03/2012 | 05:06:31 [GMT +7] A A
Cùng với nhiều nghề truyền thống, như nghề làm bún, làm bánh, làm đậu, nghề mộc v.v.. nghề rèn ở làng Yên Trì (xã Hiệp Hoà) từ xa xưa đã rất nổi tiếng. Thế nhưng cùng với thời gian, nghề rèn Yên Trì hiện đang mai một dần; những thợ rèn tay nghề cao giờ còn lại rất ít, trong khi lớp trẻ lại không mấy người mặn mà với cái nghề “khổ sai” này...
Anh Nguyễn Văn Trường (bên phải) cùng thợ phụ đang làm việc. |
Từ tâm sự của những người thợ...
Từ trung tâm TX Quảng Yên, đi chừng 3 cây số là đến làng Yên Trì. Ngay từ đầu làng, những âm thanh đặc trưng của làng rèn đã văng vẳng. Tiếng quai búa, đập sắt xuống đe chát chúa, tiếng mài dao xoèn xoẹt, tiếng quạt thổi lửa chạy vù vù... Một không khí thật đặc trưng ở một làng nghề truyền thống.
Đến thăm những lò rèn, ấn tượng đầu tiên với tôi là những người thợ có thân hình rắn rỏi, khoẻ mạnh, đôi tay thoăn thoắt quai búa, đều và nhịp nhàng như... đang múa vậy! Mồ hôi nhễ nhại lăn dài trên khuôn mặt đỏ ửng của các bác, các anh. Mặc dù đã vào độ cuối xuân nhưng thời tiết vẫn còn khá lạnh, vậy mà các bác, các anh vẫn ăn mặc rất phong phanh, với chiếc áo ba lỗ, mồ hôi ra ướt sũng... Nhìn họ mặt mũi nhọ nhem mà nụ cười rất tươi nở trên môi, tôi cũng cảm thấy vui lây...
Nghề rèn ở Yên Trì chủ yếu tồn tại theo kiểu “cha truyền con nối”, không có tài liệu hay sổ sách ghi chép lại nên dần dần nó cứ bị mai một đi. Những thợ rèn tay nghề cao mất đi, trong khi giới trẻ lại không còn ai mặn mà với nghề của cha ông... |
Để làm ra một sản phẩm, người thợ rèn phải trải qua rất nhiều công đoạn, từ cắt sắt tạo hình, nung, đập, nhúng nước, rồi lại nung, đập cho tới khi định hình được sản phẩm, mài cho sắc, làm nắm cầm... Và dường như những công đoạn ấy đã “ngấm vào máu”, nên chẳng ai bảo ai mà vẫn làm nhanh thoăn thoắt. Lau vội những giọt mồ hôi trên trán, anh Nguyễn Văn Hiển, chủ lò rèn thôn 12, kể: “- Thường thì các lò rèn có từ 2 đến 3 người làm và phần lớn là người cùng họ hàng, anh em, chú bác với nhau. Nghề rèn cần sự bền bỉ, kiên trì và tỉ mỉ. Có nhiều người chỉ “trụ” được một thời gian đã phải bỏ cuộc...”.
Với các lò rèn ở Yên Trì, các sản phẩm được tạo ra hoàn toàn thủ công; từ khâu cắt sắt, tạo hình, quai búa, làm tay cầm v.v.. tất cả đều chỉ bằng tay, không có sự can thiệp của máy móc. Nhưng chính vì thế mà những sản phẩm ở đây làm ra có độ tinh xảo hơn, bền hơn, mẫu mã cũng phong phú, đa dạng hơn. Đặc biệt, vì là làm thủ công nên nó đáp ứng được mọi nhu cầu của khách hàng, từ làm mới các sản phẩm đến sửa chữa những đồ dùng cũ bị hỏng hóc v.v..
Gia đình bác Nguyễn Văn Bình (52 tuổi, ở thôn 15), là một trong những chủ lò rèn lâu năm nhất ở làng Yên Trì. Như bác nói thì bác là đời thứ 4 nối nghiệp cha ông gìn giữ nghề rèn. Bác Bình kể: “- Tôi cũng không biết nó có từ khi nào, nhưng nghe các cụ truyền lại thì nghề này có từ lâu đời lắm rồi. Thời kỳ trước và sau Cách mạng Tháng Tám - 1945, các lò rèn ở Yên Trì còn rèn cả vũ khí như đao, kiếm, giáo mác... để phục vụ cách mạng. Giai đoạn những năm 90 của thế kỷ trước, nghề rèn rất phát triển, do lúc này các sản phẩm phục vụ sản xuất cũng như các sản phẩm kim khí làm từ máy móc không nhiều như bây giờ... Nhưng nay thì nghề rèn thủ công như chúng tôi gặp nhiều khó khăn lắm chú ơi!”.
Được bác Bình giới thiệu, tôi tới thăm lò rèn gia đình bác Nguyễn Văn Xuân ở thôn 12. Năm nay bác đã ngoài 70 tuổi nhưng xem ra vẫn rất nhanh nhẹn, linh hoạt. Bác bảo: “- Tôi đã gắn bó cả cuộc đời với nghề rèn và hiện con trai tôi (anh Nguyễn Văn Trường) cũng đang làm rèn; cháu nó là đời thứ 4 theo nghiệp này rồi đấy!”.
Nói về bí quyết của nghề, bác Xuân cho biết: Mỗi lò rèn đều có bí kíp gia truyền riêng của mình; chẳng hạn như dùng loại than đốt lò như thế nào cho lửa tốt; rồi cắt sắt tạo hình, nung qua lửa ra sao v.v.. Cái khó nhất, cũng là bí quyết quan trọng nhất của người thợ là nhìn qua độ hồng của sắt và thép trên ngọn lửa để biết đã vừa đủ hay chưa. Việc này đòi hỏi người thợ phải có kinh nghiệm mới cảm nhận tinh tường được; chỉ cần tôi thép già hay non một chút là sản phẩm sẽ không đạt chất lượng...
Và cũng như bác Bình, khi nói về công việc hôm nay, bác Xuân tỏ ý kém vui. “- Mấy năm nay làm rèn khó khăn lắm chú à?” - Bác Xuân trầm ngâm - “- Chỉ lo cái nghề truyền thống của cha ông để lại này bị mai một thì tiếc lắm!”...
Một số sản phẩm đặc trưng của làng rèn Yên Trì. |
Đến những trăn trở làng rèn
Trong những năm qua, ở xã Hiệp Hoà, việc bảo tồn và gìn giữ nghề truyền thống, nhất là nghề rèn, cũng đã được đặt ra. Trong bản quy hoạch xây dựng nông thôn mới, việc phát triển các nghề thủ công, gìn giữ nghề truyền thống để góp phần chuyển đổi mô hình sản xuất, phát triển mạnh tiểu thủ công nghiệp đã được đề cập. Thế nhưng, thực sự, trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt hiện nay, cũng như các nghề truyền thống khác, nghề rèn gặp không ít khó khăn. Nếu ngày xưa, Yên Trì có rất nhiều lò rèn thì nay trên địa bàn chỉ còn 6 lò thường xuyên đỏ lửa. Một số lò nay chỉ hoạt động cầm chừng hoặc chuyển sang nghề cơ khí, hàn, sửa chữa máy móc v.v.. cho thu nhập cao hơn.
Nguyên nhân khiến cho làng rèn Yên Trì co hẹp lại là vì sản phẩm làm ra vẫn chưa được tiêu thụ rộng rãi mà chỉ phục vụ cho nhu cầu bà con trong xã là chủ yếu. Các sản phẩm kim khí nhập ngoại từ Trung Quốc hoặc từ các nhà máy lớn trong nước có giá rẻ hơn đã làm cho các sản phẩm làng rèn không thể cạnh tranh được. Do đó tìm đầu ra cho sản phẩm là rất khó...
Một vấn đề nữa là nghề rèn ở Yên Trì chủ yếu tồn tại theo kiểu “cha truyền con nối”, không có tài liệu hay sổ sách ghi chép lại nên dần dần nó cứ bị mai một đi. Những thợ rèn tay nghề cao mất đi, trong khi giới trẻ lại không còn ai mặn mà với nghề của cha ông. Hiện người thợ rèn ít tuổi nhất ở Yên Trì cũng đã xấp xỉ 40, còn gọi là thợ bậc cao thì hầu như đều đã ngoài 50, 60 tuổi...
Anh Nguyễn Văn Trường (con trai bác Xuân, người đã nói ở trên) năm nay 35 tuổi, là chủ lò rèn thôn 12. Anh là một trong những thợ rèn còn trẻ mà có tay nghề cao ở đây, tâm sự: “Những người tuổi dưới 40 như tôi mà vẫn theo đuổi nghề rèn ở trong làng rất ít. Đặc biệt là lớp thanh niên giờ không mặn mà với nghề này nữa đâu anh ạ. Bởi nghề rèn đòi hỏi sự kiên nhẫn, tỉ mỉ lại lao động nặng nhọc mà thu nhập thì thấp nên không mấy thanh niên muốn theo học...”. Anh Trường còn nói thêm: “- Có lẽ sau thời của mình, chắc không còn ai theo nghề này nữa đâu...”.
Bác Bình khi được hỏi về việc bảo tồn và phát triển nghề rèn truyền thống cũng như vậy; ánh mắt bác nhìn xa xăm, đăm chiêu. Chiêu một ngụm trà, bác trầm ngâm nói: “- Gia đình tôi có 4 người con trai, tôi đã cố gắng thuyết phục và truyền dạy lại nghề cho chúng, nhưng không đứa nào theo cả. Chúng nó bảo nghề này nặng nhọc lại... bạc bẽo. Giờ mỗi đứa làm một nghề khác nhau, nhưng chẳng liên quan gì đến nghề rèn. Có lẽ hết đời của tôi thì lò rèn gia đình cũng “tắt lửa” thôi”...
Nghe các bác, các anh tâm sự, từ cảm giác tò mò, háo hức lúc ban đầu khi mới đến, giờ đây tôi lại thấy chạnh buồn. Rồi mai đây làng rèn Yên Trì sẽ đi về đâu? Những ánh mắt đượm buồn của bác Xuân, bác Bình, anh Trường v.v.. cứ ám ảnh tôi mãi. Liệu rồi sau này, khi trở lại Yên Trì, tôi có còn được nghe tiếng quai búa chí chát, náo nhiệt như hôm nay nữa không? - Ai mà biết được!
Đức Hiếu
Liên kết website
Ý kiến ()