Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 19/04/2024 20:23 (GMT +7)
Chính quyền sai, dân chịu?
Thứ 2, 08/08/2011 | 06:49:51 [GMT +7] A A
Theo phản ánh của người dân, cuối tháng 7 vừa qua, chúng tôi đã đến huyện Đông Triều để tìm hiểu về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) ở đây. Quả thật, có những sai phạm trong công tác này đang gây nên bức xúc cho nhiều hộ dân, trong khi chính quyền chưa tìm được cách tháo gỡ.
Ông Vũ Phạm Trinh, bên thửa đất đã bán cho người khác xây nhà, hiện được xác định là đất vườn.
“Bỏ quên” nhiều quy định
Những năm qua, huyện Đông Triều đã có nhiều cố gắng trong công tác quản lý đất đai và cấp GCNQSDĐ. Từ năm 2003-2007, Đông Triều đã cấp được 40.334 GCNQSDĐ các loại với tổng diện tích 4,8 nghìn ha. Thế nhưng, theo Kết luận số 07 ngày 30-6-2010 của Thanh tra tỉnh “Về việc cấp GCNQSDĐ và quyền sở hữu nhà ở trên địa bàn huyện Đông Triều từ năm 2004 đến năm 2007” có nhiều sai phạm của các cơ quan chức năng ở đây.
Theo quy định, các hồ sơ cấp GCNQSDĐ phải căn cứ vào Thông tư số 1990/2001/ TT-TCĐC ngày 30-1-2001 của Tổng cục Địa chính về “Hướng dẫn đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp GCNQSDĐ” và Công văn hướng dẫn số 581 ngày 28-8-2002 của Sở Địa chính (nay là Sở TN&MT). Thế nhưng, quá trình thực hiện, cơ quan chuyên môn của huyện Đông Triều lại áp dụng rất “ông chẳng bà chuộc”. Cụ thể là, mẫu đơn xin cấp GCNQSDĐ không thống nhất. Một số địa phương trong huyện áp dụng theo mẫu số 04-ĐK tại Thông tư số 1990/2001/TT-TCĐC; theo Thông tư số 29 của Bộ TN&MT ngày 1-11-2004 “Về việc hướng dẫn lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính”. Một số địa phương khác thì lại thực hiện theo mẫu cũ tại Thông tư liên tịch số 1442/1999 ngày 21-9-1999 của Tổng cục Địa chính - Bộ Tài chính. Kiểm tra thực tế 609 hồ sơ cấp GCNQSDĐ tại xã Bình Dương, thì có 101 đơn không ghi số chứng minh nhân dân, ngày, tháng, năm sinh của người xin cấp. Không những thế, các biên bản của Hội đồng đăng ký đất đai của các xã, thị trấn đều xét duyệt toàn bộ các trường hợp xin cấp GCNQSDĐ (kể cả trường hợp có giấy tờ và không có giấy tờ theo quy định). Biên bản xét duyệt của hội đồng không ghi riêng nội dung, kết quả của từng hộ sử dụng theo mẫu 07-ĐK tại Thông tư 1990/2001/ TT-TCĐC, do đó chưa thể hiện được quan điểm của hội đồng là trường hợp nào có đủ giấy tờ, trường hợp nào chưa đủ phải vận dụng các chế độ chính sách hiện hành. Dẫn đến, Phòng TN&MT huyện không ghi ý kiến thẩm định vào từng hồ sơ theo quy định, mà chỉ tổng hợp ý kiến thẩm định chung vào tờ trình gửi UBND huyện kèm theo danh sách của Hội đồng đăng ký đất đai từ các xã, thị trấn chuyển lên. Chính vì thế, UBND huyện không ban hành quyết định phê duyệt cấp GCNQSDĐ, mà chỉ duyệt tắt vào tờ trình của Phòng TN&MT. Qua kiểm tra tại xã Hồng Thái Tây, cơ quan chức năng đã phát hiện có 34 GCNQSDĐ được cấp trước ngày UBND huyện duyệt vào tờ trình của Phòng TN&MT. Tại xã Tràng Lương có 26 hồ sơ ghi nguồn gốc là đất bãi được xã cấp những năm 1988 và 1989, nhưng đối tượng được cấp GCNQSDĐ đất ở nêu trên lại sinh vào những năm 1978, 1984.
Nghiêm trọng hơn, việc áp dụng các giấy tờ liên quan để xác định hạn mức đất ở được cấp trong quá trình cấp GCNQSDĐ đã bị các cơ quan chuyên môn của huyện Đông Triều “bỏ quên” nhiều quy định. Điển hình là tại thị trấn Mạo Khê, việc quản lý đất đai từ giai đoạn 1987-1996 được thị trấn căn cứ vào 7 quyển sổ đăng ký ruộng đất, từ đó đã cấp 5.017 giấy chứng nhận tạm thời đất thổ cư. Có điều, 7 quyển sổ này đều không có chữ ký, con dấu, không ghi thời gian sử dụng đất của các hộ. Đặc biệt là sau thời điểm Luật Đất đai 1993 có hiệu lực, UBND thị trấn Mạo Khê vẫn tiếp tục cấp giấy chứng nhận tạm thời đất thổ cư, mãi đến năm 1996 mới dừng lại. Thị trấn cho rằng, việc cấp giấy chứng nhận tạm thời là căn cứ vào 7 quyển sổ trên để xét nguồn gốc đất, thời điểm sử dụng. Tuy nhiên, trên thực tế thì 7 quyển sổ này chưa đủ điều kiện được xác định là sổ đăng ký ruộng đất. Bởi trình tự, thủ tục lập hồ sơ không được lập theo quy định về thủ tục đăng ký, thống kê ruộng đất trong cả nước được ban hành kèm theo Quyết định 56 ngày 5-11-1988 của Tổng cục Quản lý ruộng đất; những cuốn sổ này thực chất chỉ là sổ theo dõi diện tích các hộ sử dụng đất. Trong giai đoạn 2004-2007, thị trấn Mạo Khê đã cấp 5.145 GCNQSDĐ; qua thanh tra đã phát hiện có 46 trường hợp không có giấy tờ theo quy định tại các khoản 1, 2 và 5, Điều 50 Luật Đất đai năm 2003; có 5.017 trường hợp có giấy chứng nhận tạm thời được cấp từ năm 1987-1996, nhưng đối chiếu với hạn mức đất ở theo Quyết định 1325/2004 ngày 16-4-2004 và Quyết định 3717 ngày 30-9-2005 của UBND tỉnh: Có 31 giấy cấp vượt 6.952m2; 30 giấy cấp vượt 6.041m2 và 1.730 giấy cấp vượt 575.875m2 (tổng số diện tích đất cấp vượt 588.868m2). Tại xã Yên Đức có 421 giấy cấp vượt 67.948m2.
Không những thế, quá trình cấp GCNQSDĐ, hầu như không thu tiền sử dụng đất. Chỉ tính riêng tại thị trấn Mạo Khê, nếu lấy giá thấp nhất trong năm 2006 là 40.000đ/m2, thì đã thất thu cho ngân sách Nhà nước trên 11,777 tỷ đồng. Ngoài ra, quá trình cấp GCNQSDĐ trên địa bàn huyện còn vi phạm quy hoạch đã được phê duyệt; không đúng mục đích đã giao và thời hạn sử dụng v.v..
Khó khăn trong quá trình khắc phục
Hậu quả của những thiếu sót, sai phạm của các cơ quan chuyên môn huyện Đông Triều trong quá trình cấp GCNQSDĐ đã tạo ra sự không thống nhất về công tác quản lý đất đai trên địa bàn, gây trở ngại không nhỏ đối với quá trình ổn định cuộc sống của các hộ dân. Đồng thời gây tâm lý hoang mang của người dân trong việc sở hữu, sử dụng nhà, đất ở.
Đến thị trấn Mạo Khê, địa phương được xem là có nhiều sai phạm nhất trong quá trình cấp GCNQSDĐ của huyện Đông Triều giai đoạn 2004-2007; chúng tôi được một cán bộ của thị trấn cho biết, ngay sau khi nhận được Kết luận của Thanh tra tỉnh, UBND huyện Đông Triều đã tích cực vào cuộc, chỉ đạo các địa phương, nhất là thị trấn Mạo Khê thực hiện rà soát lại thời điểm sử dụng đất. Theo báo cáo số 46 của UBND thị trấn, hiện trên địa bàn có 1.791 hộ có diện tích vượt hạn mức và cần tiến hành xác định lại nguồn gốc sử dụng đất; trong đó có 1.715 hộ có nguồn gốc sử dụng đất trước ngày 18-12-1980. Theo yêu cầu của huyện, thì thị trấn phải rà soát, xác minh về nguồn gốc sử dụng cụ thể ngày, tháng, tên, tuổi của 1.791 trường hợp nói trên. Nhưng, đến thời điểm hiện tại, công việc này xem như bất khả thi. Bởi, căn cứ quan trọng để thị trấn cấp GCNQSDĐ cho các hộ dân chỉ là 7 quyển sổ đăng ký ruộng đất nói trên. Thị trấn cũng đồng tình với yêu cầu thu hồi GCNQSDĐ cấp sai (mục đích sử dụng, thời điểm được cấp, thời gian sử dụng, sơ đồ hiện trạng) để chỉnh lý, điều chỉnh và cấp lại; hoàn thiện hồ sơ, cùng phiếu thông tin địa chính chuyển sang cơ quan thuế để tính tiền thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với các hộ dân. Riêng việc yêu cầu thu hồi GCNQSDĐ đối với đất ở đã cấp hoặc thu tiền hợp thức hoá quyền sử dụng đất là không khả thi. Bởi hiện nay, không ít hộ đã tổ chức mua bán, sang nhượng, nếu tính thuế vào cho người sử dụng sau sẽ không khách quan.
Ông Phạm Văn Biên ở tổ 2, khu Quang Trung, thị trấn Mạo Khê, bức xúc cho biết: “Gia đình tôi sinh sống ổn định trên mảnh đất này từ năm 1975. Khi mẹ tôi làm GCNQSDĐ được cấp 780m2 đất ở. Mẹ tôi vẫn đóng thuế thường xuyên từ khi được cấp đến nay. Khi mẹ tôi gần mất, bà muốn tách mảnh đất này làm tài sản thừa kế cho anh em tôi. Thế nhưng, căn cứ vào kết quả rà soát, thì hạn mức đất ở chỉ được 400m2, nên chưa tách được. Lúc mất, mẹ tôi vẫn băn khoăn là chưa hoàn thành được tâm nguyện của mình”. Hiện tại, trên diện tích đất này, anh em ông Biên sử dụng xây dựng nhà cửa, công trình phụ... Dẫn chúng tôi đi thăm đất, nhà, ông Biên cho biết thêm, gia đình ông đã làm nhà ổn định còn đỡ, nhưng một số hộ khác có diện tích bị vượt, muốn xây mới nhà, sẽ khó xin được giấy phép xây dựng, khổ nhất là những gia đình muốn thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng, bởi tình trạng “bìa đỏ” như vậy làm sao vay được.
Ông Vũ Phạm Trinh ở tổ 1, khu Vĩnh Tuy 1, thị trấn Mạo Khê, thì khốn đốn hơn: “Tôi có mảnh đất 1.300m2 đã tách cho 2 con 600m2. Năm 2005, tôi được cấp GCNQSDĐ ở với số diện tích còn lại là 700m2. Do tuổi già, sức yếu không làm được gì, vợ chồng tôi đã tách 210m2 để bán lấy tiền dưỡng già. Gia đình người mua đã xây nhà ở từ vài năm trước. Đùng một cái, cán bộ thị trấn đến kiểm tra, cho rằng phần đất của gia đình tôi có trên 200m2 là vườn tạp, phải chuyển mục đích sử dụng. Nếu tính toán như vậy thì phần diện tích vườn tạp nằm chủ yếu ở phần đất tôi đã bán cho người ta. Vậy là tôi không chỉ mất không mảnh đất đó, mà còn phải bù hơn 50 triệu đồng nữa mới đủ làm GCNQSDĐ đền cho gia đình người ta…”.
Những sai phạm của huyện Đông Triều về việc cấp GCNQSDĐ này đã và đang gây nên sự lo lắng của người dân trên địa bàn. Nhiều người dân bày tỏ mong muốn các ngành, các cấp sớm vào cuộc, có biện pháp giải quyết hợp tình, hợp lý, để người dân yên tâm làm ăn, sinh sống.
Liên kết website
Ý kiến ()