Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 19/04/2024 13:23 (GMT +7)
Làng cửa biển mùa xuân thứ 40
Chủ nhật, 13/02/2011 | 10:05:19 [GMT +7] A A
Một ngày đầu năm mới 2011, tôi lại có dịp về làng cửa biển Hà An, mảnh đất hai lần Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng: Anh hùng Lực lượng vũ trang thời chống Mỹ cứu nước và Anh hùng Lao động thời kỳ Đổi mới.
Làng quê nhộn nhịp dáng vẻ của một đô thị đang lên sầm uất. Hai bên đường làng, hàng quán, chợ quê bày la liệt hàng hóa rực rỡ sắc màu. Người dân hối hả trong không khí đón xuân về. Khách nơi khác vào làng không ai nghĩ đây lại là một vùng quê mới. Đó là làng Hà An.
Họa sĩ Vũ Nhụy bên bức phù điêu của làng...
Làng Hà An vốn được tạo dựng từ các thế hệ con cháu các vị Tiên Công Hà Nam từ kinh thành Thăng Long di xuống vào những năm giữa thế kỷ XV. Trải qua 6 thế kỷ, bước chân của các Tiên Công lại được lặp lại bằng một sự kiện lịch sử khai thác vùng đất bãi triều ngập mặn Hà An!
Chuẩn bị cho kỷ niệm 40 năm thành lập xã, cán bộ và nhân dân Hà An vừa dựng xong một bức tranh phù điêu bằng bê tông diện tích 100m2, dài 25m, cao 4,5m trong khuôn viên sân trụ sở UBND xã. Chúng tôi thực sự bất ngờ và choáng ngợp trước công trình nghệ thuật lớn này. Có thể nói đây là một bản trường ca về quá trình hình thành và phát triển của vùng quê Hà An. Những ngọn sóng, những dải đất bãi triều rừng ngập mặn, những con người quả cảm đang hiện lên trên tấm bê tông thật hoành tráng mà tác giả không ai khác, lại chính là các họa sĩ làng - những người trong cuộc thể hiện. Kinh phí được nhân dân ủng hộ xã hội hóa. Riêng ông Nguyễn Hữu Tuyên tài trợ tới 50 triệu đồng.
Nói đến Hà An là nói đến nghề vận tải với hình ảnh cánh buồm trên sông nước. Bốn HTX vận tải thuyền buồm - biểu tượng bốn ngọn sóng đầy ý chí và một HTX thủ công nghiệp như một hậu phương của người đi biển, đã hợp thành sức mạnh Hà An. Chúng tôi đã có một cuộc tiếp xúc thật thú vị bên công trình đang kết thúc những công đoạn cuối. Chủ tịch xã Vũ Đức Hoàn tâm sự: -Trên bức phù điêu này, chúng tôi muốn khắc ghi lại những hình ảnh và công tích một thời những năm 60-70 của thế kỷ 20 đã để lại ánh sáng hoàng kim của các thế hệ cha anh. Đó là sự tái hiện quá trình từ sơ khai đến hình thành và phát triển của mảnh đất Anh hùng nơi cửa biển... Và còn là một sự tri ân của hậu thế…
Còn họa sĩ Vũ Nhụy, hội viên Hội VHNT Quảng Ninh, trưởng nhóm "nghệ sĩ làng", đứng trước tác phẩm, anh đã không ngăn nổi xúc động: -Từ khi phác thảo đến lúc thành hiện thực tác phẩm này, tôi như người "nhập đồng", hóa thân vào quá vãng mà tôi là kẻ đương thời vô cùng hạnh phúc được chứng kiến cả một chặng đường dài đi lên trên đầu sóng ngọn gió của Hà An. Anh khoát tay lên bức phù điêu đang phủ màu nhũ đồng còn dang dở: -Trung tâm tác phẩm là Cánh Buồm, niềm tự hào bất tử, nguồn sáng tạo cuộc sống, là linh hồn rất đỗi thiêng liêng của người Hà An. Nó đã góp phần tiếp nối bước chân của các bậc Tiên Công!... Và xung quanh nó là cả một cuộc chinh phục thiên nhiên, một chặng đường sống còn hội tụ. Trong nhiều đêm trăn trở thức trắng, tất cả bỗng hiện lên trong tâm khảm tôi một thời oanh liệt!
Đắp đê lấn biển. Có đất, có làng, có nghề tồn tại, ngôi làng cửa biển này đã không dễ dàng xuôi dầm mát mái! Những ngày hoang sơ ấy, nhìn cây năn, loài thực vật đầu tiên mọc lên trên đất mặn, là mừng lắm. Năn mọc thành thảm từng giúp dân làng đang chân ướt chân ráo qua "ngày ba tháng tám". Cây cói mọc được. Cây lúa cho bông. Biết là núm ruột mình đã liền vào đất, không uổng sức dân, không là "châu chấu đá xe" trước con đê mỏng mảnh trên sóng nước!
Tôi lại nhớ tới ông Ngô E, nguyên Bí thư Đảng bộ xã khóa đầu tiên (ông mới mất hồi giữa năm nay). Ở huyện vùng biển này hiếm có một Bí thư Đảng ủy xã nào có bề dày hai mươi hai năm làm bí thư như ông, từng gánh vác mười nhiệm kỳ, từng tiếp xúc, từng trải nghiệm và cả cọ sát với chín đời bí thư huyện ủy... Ông là người vừa kiên quyết vừa mềm dẻo, có đường lối, bản lĩnh và đức độ. Ông đã lái được con thuyền do bậc đàn anh hôm trước đặt tay lái vào ông đi tới bờ tới bến. Thấy lớp trẻ bây giờ đang miệt mài phấn đấu thực sự xứng đáng với cha anh, ông phấn khởi lắm: -Thời nào cũng có nỗi vất vả riêng. Thời mình tìm được đất lập làng có cái vất vả của người tìm đất. Bây giờ thời các cháu lại có cái vất vả của người giữ đất, xây đất, vươn lên trong cơ chế thị trường đầy khắc nghiệt...
Đây là lời thốt lên của cụ Nguyễn Huy Trang, một trong những xã viên thủy thủ lớp đầu tiên: -Bây giờ Hà An có vùng đất 750 ha, có làng, có ruộng, có đầm thủy sản, có sự nghiệp vận tải truyền thống. Trong vòng 40 năm kể từ lúc đặt nét chì mờ, không chỉ thu phục được đất bãi mặn cải tạo ngọt hóa thành đất canh tác hai vụ chiêm mùa, làng đã tồn tại được hàng trăm tàu thuyền vận tải trị giá hàng trăm tỷ đồng... Anh tính sao không mừng, không sướng? Lời Bác Hồ dạy: "Đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên", với dân làng chúng tôi quả là ý nghĩa!
Năm nay, cụ Nguyễn Hữu Trang được lên Thượng thọ 80 tuổi. Con cháu đang chuẩn bị lễ mừng Thượng thọ theo phong tục Hà Nam, rước cụ về bái thọ trong Lễ hội Tiên Công. Cụ bồi hồi nhớ lại: -Những năm đầu 1960, người dân ở đây làm nghề vận tải, đứng lên ngồi xuống quanh năm trong khoang thuyền gỗ lênh đênh mặt nước. Nay neo bến này, mai ghé bến kia. Gạo chợ nước sông. Không một tấc đất gieo thử vài hạt lạc, hạt đỗ do mình chuyên chở trong chuyến đi bị ẩm mốc, nảy mầm! Những ai có vợ con thì tranh thủ nước kém về đất Hà Nam ăn vội bát cơm đồng áng, uống gáo nước mưa... Hầu hết người vận tải không có phương tiện thuyền bè, phải đi làm chân sào, tay lái cho các tiểu chủ.
Ngày 25-8-1960 là một ngày đáng nhớ của các đảng viên kỳ cựu nay còn sống; đó là ngày thành lập chi bộ thuyền buồm vận tải Yên Hưng, có 20 đồng chí, do ông Nguyễn Nhi, Trưởng Phòng Giao thông huyện, làm bí thư chi bộ đầu tiên. Các đảng viên vẫn hàng ngày nhảy từ thuyền nọ sang thuyền kia để lo toan xốc vác phong trào.
Bốn hợp tác xã vận tải ra đời: Đại Thành, Phong Hải, Hồng Phong và Bạch Đằng. Dân tiếp tục sống trên những chiếc thuyền buồm phong phanh gió nắng. Hàng trăm chiếc thuyền vận tải lớn nhỏ những ngày nước kém về đậu dọc bờ Bến Ngự, Sông Chanh, chẳng khác gì một "Vương quốc thuyền buồm". Một cơn dông, một cơn bão từ xa cũng làm người bồn chồn, lo lắng!.. Phải giải quyết thực trạng cuộc sống vất vưởng này bằng con đường tổ chức xây dựng xóm làng, quê hương mới. Phải tập hợp các gia đình vận tải quy về một mối, mới giữ vững và phát triển được ngành giao thông vận tải. Dân vận tải dưới sông cùng gia đình họ phải có đất, có ngôi làng chung! Ý tưởng đó xuất hiện như một luồng gió mới.
Ngày 30-8-1964, Ban chấp hành Đảng ủy vận tải xây dựng kế hoạch khảo sát địa hình sông nước trên một chiếc ca nô nhỏ. Qua Sông Khoai, Núi Chữ, đến Hàm Rồng, Bến Giang, rồi đảo Hoàng Tân... cuối cùng dừng lại khu Ba Đượng, nơi cửa biển, hạ lưu Sông Chanh (một nhánh phân lưu về phía đông của sông Bạch Đằng). Phía trước là Vịnh Hạ Long muôn trùng đảo đá xanh biếc. Một bên là bãi triều mênh mông sú vẹt, ngọn sóng đánh bọt trắng xóa vào tận bãi cát xã Tiền An. Một bên là xóm Cống Mương đảo Hà Nam quê cũ, tiếng gà eo óc gáy. Mọi người ngắm đi ngắm lại, ai cũng cảm thấy trên bãi triều này có một cái gì đó lưu luyến khôn nguôi... Ý tưởng về mảnh đất thêm cháy bỏng tâm can. Một phương án táo bạo được thông qua và bắt đầu mở màn. Chiếc thuyền gỗ giải bản của hợp tác xã Phong Hải được chọn đưa ra neo đậu tại Ba Đượng làm bản doanh khởi thủy cho một cuộc chinh phục. Cụ Nguyễn Hữu Trang nuối tiếc: -Lúc bấy giờ không có máy ảnh mà chụp lại chiếc thuyền này để lưu giữ vào truyền thống của làng.
Lớp thợ trẻ Hà An hôm nay.
Đúng 5 giờ sáng ngày 22-12-1964, mực nước thủy triều hạ thấp nhất. Góc nước "cái" Bà Rà còn lại 3,2m. Dòng sông chết lặng. Cũng là lúc những hòn đất, hòn đá đầu tiên của công cuộc trị thủy ném xuống, thách chiến với thủy thần. Hàng trăm chiếc thuyền chở đầy đất, đá từ bờ Hà Nam, từ thượng lưu Sông Chanh lao ra. Hàng ngàn vai trần của cán bộ đảng viên, xã viên, những tay lái chân sào vận tải ghé xuống. Tiếng loa, tiếng trống, tiếng pháo cùng tiếng reo hò vang động một góc trời, chẳng khác gì trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng năm 1288 - quân dân nhà Trần đánh thắng giặc Nguyên Mông...
Những lão làng - những người đi mở đất ngày ấy ai cũng bảo: Lúc đó ít nhất cũng hơn 10 vạn khối đá lấy từ núi đá Tràng Kênh, Hoàng Tân đổ xuống mới vá được "bầu trời lộn ngược" nơi cửa biển để làm cốt cho đê! Thời kỳ này giặc Mỹ mở rộng bắn phá miền Bắc. Đường bay của chúng sát sạt trên đầu công trường đang sôi động. Nhiều lần chúng thả bom, bắn tên lửa xuống con đê còn non nớt. Nhiều lần đê vỡ, lại dồn sức hàn thủy. Cuối cùng con đê đã bao một vành cung 10km ôm lấy vùng bãi sú vẹt, áp sát vào xã Tiền An, phía đông huyện Yên Hưng!
Có đất trong tầm tay, phải có người lập ấp, xây làng. Xưa nay ông cha ta đều truyền nhau nỗi lo như thế! Các gia đình đảng viên Bùi Dị, Tô Tiến O, Bùi Đình Kỳ, Ngô E, Ngô Sùng, Bùi Tá, Ngô Quynh... đặt những nền móng đầu tiên trên đất mới. Nhân dân các xã đảo Hà Nam liên quan đến nghề vận tải lần lượt chuyển sang. Nắng, hơi chua mặn xông lên mờ mắt. Mưa, đất nhão lầy muốn vít bàn chân. Vừa chặt sú vẹt, vừa vật đất đắp móng làm đường. Mái nhà đu đưa trên biển nước mênh mông. Hạnh phúc sinh sôi trong bình minh, hăng nồng gió muối. Trẻ con cất tiếng khóc chào đời. Trang sách học trò mở ra dưới mái lớp dột làm đau đáu lòng người lớn. Người già qua đời sẽ ký ở đâu? Bao nhiêu thứ đời thường, vốn tự nó sinh ra, tự nó mất đi! Cuộc sống thôi thúc hằng giờ hằng phút. Phải an cư mới lạc nghiệp. Cho thuyền về có bến, cho chim bay nhớ tổ.
Một ngày mùa thu, 12-9-1971, xã mới Hà An thành lập! Vậy là để có một Hà An, xã thứ 17 của huyện Yên Hưng thời điểm đó, những người "Tiên Công thời đại" đã phải hoài thai 7 năm ròng rã kể từ ngày hòn đất đầu tiên ném xuống cửa biển Cái Dâu...
Cuốn "Lịch sử Đảng bộ xã Hà An" ghi rõ: "Từ nay Hà An có đất, có nước, có Đảng, có chính quyền cơ sở. Và nhất định sẽ có cuộc sống mới ấm no hạnh phúc!" Đó là lời tuyên thệ trong buổi lễ chào lá Quốc kỳ, chào đời xã mới Hà An khai sinh sáng mùa thu năm ấy của những công dân "Vương quốc thuyền buồm".
Cùng hòa nhịp với bốn hợp tác xã vận tải thuyền buồm là một hợp tác xã thủ công nghiệp Vạn Hưng chuyên trồng và sản xuất các mặt hàng cói xuất khẩu, chủ yếu cho các bạn hàng Liên Xô và các nước Đông Âu. Cây cói tìm từ Thanh Hóa, Thái Bình về đất chua mặn Hà An chết đi sống lại đã thuần thục, bén tay, bén duyên người Hà An. Dân làng thoát khỏi cảnh độc nghề. Năm 1981, cây cói làm hàng xuất khẩu ổn định, lên ngôi trong vị thế kinh tế của xã và nổi danh hàng tỉnh. Xã xây được trạm xá, trường học, hội trường khang trang và nâng cấp lưới điện đến các nhà dân ở những điểm xa nhất. Nhà Văn hóa to đẹp với 500 chỗ ngồi đi vào phục vụ nhân dân. Đây cũng là Nhà Văn hóa xã đầu tiên ở huyện Yên Hưng.
Làng quê ngồn ngộn dáng vóc và sắc màu của một thị trấn. Nhà ngói, mái bằng, nhà cao tầng khoe mặt và thấp thoáng dưới bóng cây. Ngôi trường ba tầng ríu ran tiếng trẻ. Các lán xưởng, Công ty đóng và sửa chữa tàu thuyền ngoài bến sông sôi động tiếng búa nện, tiếng máy cưa, thỉnh thoảng lại lóe lên ánh lửa hàn xanh ngắt. Đó là những cái nôi cho ra đời và hạ thủy những con thuyền, những con tàu hàng vạn tấn. Tiếng máy rì rầm như tiếng cây đàn "xen lô" đệm trầm vào bản hòa tấu cuộc sống vùng sông nước. Không thấy một cánh buồm vải nhuộm nâu quen thuộc, khiến tôi càng nhớ da diết cái thời cánh buồm ngang dọc trên các dòng sông, cửa biển. Đấy là cái thời cánh buồm và cây cói đột nhiên biến mất. Đấy là cái thời do ảnh hưởng chung khi xảy ra biến động sụp đổ của hàng loạt các nước XHCN Đông Âu (1987). Hà An mất bạn hàng tiêu thụ sản phẩm chiếu cói xuất khẩu. 250 ha trồng cói bị xóa trắng. Cơ chế thị trường xuất hiện. Nghề vận tải cũng thua lỗ đâm vào bế tắc. Cánh buồm không có vải để giát và không còn thích nghi với thời tốc độ của máy móc bung ra. Bốn hợp tác xã vận tải giải thể. 1.600 lao động sông nước không việc làm. Nhiều gia đình sầm uất hai, ba máy dệt chiếu cũng bỗng nhiên theo đà thuyền ghếch bãi mà xếp xó. Riêng số công cụ ngành dệt chiếu thành sắt vụn, củi đun cũng trị giá hàng tỷ đồng! Bến sông vắng lặng. Xóm làng bặt im. Có nằm trong cuộc mới hiểu được nỗi đau của người Hà An hồi đó!
Vận động trong quy luật phát triển, Hà An đã tĩnh trí tìm cho ra được lối thoát để cứu lấy một cơ thể sống đột ngột gặp cơn lũ lớn kinh hoàng. Hàng chục, hàng trăm tàu thuyền được nâng cấp, cải hoán lắp máy công suất cao với trọng tải lớn, xuống đà ra khơi. Vận tải Hà An lại rong ruổi trên các luồng sông nội địa miền Bắc, vào miền Nam vận chuyển hàng hóa và sang Trung Quốc giao thương. Các HTX vận tải, công ty cổ phần đóng, sửa chữa tàu thuyền xuất hiện. Trước đây đóng tàu thuyền 100 tấn phải đi Hải Phòng, Hạ Long. Nay các Công ty Thủy An, Thịnh An, Sông Chanh… đã đóng được tàu trọng tải lớn hàng nghìn, hàng vạn tấn... Trên bờ, nông dân cải tạo diện tích trồng cói bỏ hoang thành trồng lúa, đưa các giống lúa mới năng suất cao vào thâm canh. Hệ thống kênh mương được kiên cố hóa trị giá hàng tỷ đồng đưa nước ngọt tới các chân ruộng. Chủ tịch xã Vũ Đức Hoàn cho biết: Một hệ thống đầm thủy sản đã và đang phát huy hiệu quả, tiếp sức cho Hà An! Đất mặn nơi cửa biển đầu thế kỷ này sẽ tiếp tục được người Hà An khai thác mọi tiềm năng, góp phần cho nền kinh tế tăng trưởng và đời sống văn hóa xã hội thêm phong phú, văn minh...
Đồng ruộng Hà An độ tuổi 40 năm đã màu mỡ mượt xanh màu lúa có thể sánh với đồng ruộng Hà Nam quê cũ. Đường làng trải nhựa, đổ bê tông ra tận các vòng đê, bến xưởng ngoài bến sông đón ngày bến sông quê thành cảng lớn trong tương lai.
40 năm qua, một chớp tay, làng vận tải đã vươn lên, đổi mới chính mình để bền vững một cơ thể làng xã đầy sức xuân nơi cửa biển. Cuộc sống đời thường như bức tranh "Hứng dừa" đây trèo đấy hứng... Sinh động lắm thay!
Nhiều người trong thế hệ đi mở đất đã thanh thản về nơi Thiên Cổ, nhiều con em học cao đỗ trọng ra đi đến mọi miền đất nước… Những người ở lại tiếp tục sát cánh đi tiếp chặng đường phía trước. Bao gian khổ, bươn trải khắc nghiệt đang từng bước qua đi, để lại dấu ấn trên từng tấc đất, nhưng cũng mang bao nhiêu niềm vui và hạnh phúc về đắp bồi cho cuộc sống mãi tươi xanh, bừng nở. Mảnh đất làng mới như bốn mùa cùng lấp lánh sắc xuân.
Chiều nay, đứng trên tầng cao một ngôi nhà giữa khu trung tâm xã nhìn làng quê, sông nước, đồng ruộng, ao đầm nắng trải xanh non… đây đó trong các mảnh vườn, những luống hoa lay ơn nở trắng, những cây đào đơm nụ đã bật lên hồng thắm, những chậu cúc khoe ánh vàng rực rỡ… tôi có cảm tưởng thời kỳ "hoàng kim thứ hai" với nhũng gương mặt mới của Hà An đang từ bức phù điêu hoành tráng kia hiển hiện ra cuộc sống. Làng Hà An như cánh buồm xưa căng lên trước gió biển ngân nga câu hát: "Cánh buồm thuở ấy, anh hùng hôm nay!..."
Liên kết website
Ý kiến ()