Tất cả chuyên mục
Thứ Bảy, 20/04/2024 08:20 (GMT +7)
Các công trình nước tự chảy khu vực miền núi: Giải bài toán khó trong quản lý, khai thác
Thứ 6, 08/09/2017 | 13:42:19 [GMT +7] A A
Hiện tại, trên địa bàn tỉnh có 161 công trình cung cấp nước hợp vệ sinh (HVS) theo thiết kế tự chảy phục vụ cho người dân ở các thôn, bản với số hộ hưởng lợi từ vài chục đến vài trăm hộ dân. Các công trình này đều được xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước hoặc dự án... và theo lộ trình phải có “tuổi thọ” 20 năm. Tuy nhiên, theo khảo sát của Sở NN&PTNT thì có 25 công trình hoạt động không hiệu quả, bị bỏ hoang hoặc nguồn nước không đảm bảo, gây lãng phí ngân sách nhà nước.
Vì sao các công trình xuống cấp, bị bỏ hoang?
Qua tìm hiểu chúng tôi được biết, một trong những nguyên nhân dẫn đến các công trình hoạt động không hiệu quả, bị bỏ hoang... đó là công tác quản lý bị địa phương buông lỏng. Các công trình đều nằm trong tình trạng “cha chung không ai khóc”, vì ai cũng nghĩ “nó là công trình công cộng nên không cần chăm lo, có nước thì dùng, không có thì thôi”. Vì vậy, những công trình cung cấp nước HVS cho bà con ở các thôn, bản chỉ sau một thời gian ngắn đã hư hỏng, xuống cấp hoặc nguồn nước không đảm bảo.
Ông Bùi Văn Tuấn, Trưởng thôn Đồng Tâm (xã Yên Than, Tiên Yên) gạt rác tụ đọng ở công trình cung cấp nước cho người dân. |
Bên cạnh đó, việc khảo sát nguồn nước trước khi xây dựng công trình cũng chưa được cụ thể, chi tiết nên dẫn đến tình trạng sớm bị cạn kiệt so với thời gian dự kiến khai thác của công trình. Huyện Tiên Yên hiện có 33 công trình nước sạch cung cấp theo hình thức nước tự chảy, tuy nhiên, đến thời điểm này có 7 công trình đã dừng hoạt động do bị hỏng, nguồn nước nhiễm mặn hoặc không có nước chảy vào bể chứa. Năm 2007, thôn Đồng Tâm (xã Yên Than) được đầu tư một hệ thống cung cấp nước sạch theo hình thức nước tự chảy, bao gồm: Đập dâng, đường ống dẫn nước và bể chứa nước. Khi đi vào hoạt động đã bộc lộ nhiều hạn chế, đó là nguồn nước không được kiểm định về vệ sinh, nước bị cạn vào mùa đông...
Ông Nguyễn Cao Khải, Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch UBND xã Yên Than, cho biết: “Các công trình cung cấp nước HVS chỉ sau thời gian ngắn hoạt động đã bộc lộ nhiều nhược điểm, như: Nước chảy yếu, đầu nguồn nước vẫn chưa được đánh giá chất lượng..., nên người dân lo lắng. Bên cạnh đó, ý thức của người dân cũng còn kém khi chưa biết cách bảo quản, gìn giữ công trình”. Không chỉ ở huyện Tiên Yên, một số công trình ở các địa phương khác, như: Hoành Bồ, Bình Liêu, Đầm Hà... cũng ở tình trạng tương tự. Do vậy, dù có công trình cung cấp nước HVS, nhưng người dân vẫn phải dùng nước không đảm bảo.
Cùng với đó, việc giao đất, giao rừng cho người dân ở các địa phương cũng là một trong những nguyên nhân làm cạn kiệt nước ở các công trình. Qua tìm hiểu được biết, ngay sau khi nhận rừng để khai thác, người dân đã ngăn dòng chảy và phát quang rừng để trồng cây lâm nghiệp ở khu vực đầu nguồn dẫn đến thay đổi thực địa, ảnh hưởng nguồn nước cấp cho các công trình.
Cần thay đổi cách quản lý
Ông Nguyễn Việt Anh, Giám đốc Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn (NS&VSMT), Sở NN&PTNT tỉnh, cho biết: “Các công trình cung cấp nước HVS đầu tư theo mô hình nước tự chảy, có công suất nhỏ, hầu hết do cộng đồng tự quản và không thu phí, nên không rõ trách nhiệm; đồng thời công trình không được duy tu, bảo dưỡng định kỳ dẫn đến nhanh xuống cấp. Do đặc thù công trình ở khu vực miền núi nước đều tự chảy, công nghệ xử lý đơn giản, địa điểm xây dựng tại thượng nguồn các khe, suối có địa hình phức tạp, cách xa khu vực dân cư, giao thông đi lại khó khăn nên công tác vận hành, kiểm tra, duy tu, bảo dưỡng rất khó khăn”.
Nguồn nước cung cấp cho người dân ở thôn Đồng Tâm (xã Yên Than, Tiên Yên) đục ngàu, ô nhiễm. |
Theo số liệu của Trung tâm NS&VSMT, hiện nay các công trình cung cấp nước HVS đầu tư theo mô hình nước tự chảy đều không được bố trí kinh phí quản lý, vận hành, duy tu, bảo dưỡng, vì vậy công trình nhanh xuống cấp, số ít công trình có thu phí, nhưng thu không đủ bù chi, vì vậy cần phải thay đổi cách quản lý. Để các công trình phát huy hiệu quả thì các địa phương, đơn vị phải tổ chức rà soát kỹ lưỡng để đánh giá đúng tình hình hoạt động, xác định cụ thể nguyên nhân gây kém hiệu quả và không hoạt động để tìm giải pháp quản lý, khai thác phù hợp.
Từ thực tế hoạt động kém hiệu quả của các công trình như hiện nay, thì việc thực hiện giao theo nhóm công trình trong một vùng, khu vực (xã, liên xã, liên huyện) theo quy hoạch, không giao riêng lẻ công trình thuận lợi có ưu thế khai thác là điều cần thiết; đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng, khai thác công trình cấp nước sạch nông thôn. “Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ cũng đã có Chỉ thị số 35/CT-TTg ngày 27-12-2016 về tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng bền vững công trình cấp nước nông thôn tập trung. Theo đó, tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 3446/KH-UBND ngày 18-5-2017 triển khai thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng để phát huy hiệu quả các công trình. Hiện nay, đã có huyện Ba Chẽ tổ chức quản lý rất hiệu quả các công trình cấp nước tập trung nông thôn bằng cách giao cho hợp tác xã dịch vụ công quản lý. Đây là mô hình mới để các địa phương tham khảo khi tính toán sắp xếp công tác quản lý công trình cấp nước tập trung trên địa bàn trong thời gian tới” - ông Nguyễn Việt Anh cho biết.
Song song với việc triển khai các giải pháp quản lý, khai thác công trình, các cơ quan chức năng cũng cần xem xét đến việc đánh giá làm rõ lưu lượng và chất lượng của nguồn nước bảo đảm bền vững và phương án khai thác khi quyết định đầu tư xây dựng công trình. Ngoài ra, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức của nhân dân trong việc bảo vệ nguồn nước và công trình cấp nước để nâng cao đời sống cho chính mình.
Nguyễn Duy
Liên kết website
Ý kiến ()