Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 29/03/2024 22:41 (GMT +7)
Một thời như thế
Chủ nhật, 06/08/2017 | 08:19:06 [GMT +7] A A
Khi Tổ quốc bị xâm lăng, mỗi thanh niên đều có nguyện vọng cầm súng bảo vệ Tổ quốc. 19 cán bộ, chiến sĩ của Phân đội 3 phóng lôi Tiểu đoàn 135 (D135) Hải quân Việt Nam trong trận chiến không cân sức ngày 1-7-1966 là những cảm tử quân. Họ bị địch bắt, giam cầm nhưng đã giữ vững khí tiết cách mạng trước kẻ thù. Nhân kỷ niệm 53 năm Chiến thắng trận đầu của quân và dân ta đánh bại cuộc tập kích chiến lược của không quân Mỹ mở đầu cho cuộc chiến tranh, phá hoại miền Bắc 5-8 (1964-2017), bài viết này tôi ghi lại cuộc trò chuyện của tôi với cựu chiến binh hải quân Phạm Hùng, 75 tuổi đời, 54 tuổi Đảng, hiện ở phường Trần Hưng Đạo (TP Hạ Long). Ông là một trong 19 cán bộ, chiến sĩ Hải quân Việt Nam kể trên bị Mỹ bắt làm tù binh. Ôn lại chuyện “Một thời như thế” - tên tập thơ của ông cũng là để ôn lại sự kiện lịch sử một thời...
CCB Phạm Hùng. |
Ông Hùng kể: Tôi là học sinh lớp 10, khoá đầu tiên của Trường cấp 3 thị xã Cẩm Phả (nay là Trường THPT thành phố Cẩm Phả). Tôi được kết nạp vào Đảng trước ngày nhập ngũ 2 tuần. Chúng tôi được ưu tiên thi tốt nghiệp nhanh gọn trong 1 ngày để kịp ngày 26-6-1963 lên đường vào Trường Huấn luyện tân binh của hải quân. Sau khoá huấn luyện, vì chỉ có sức khoẻ loại A3 nên tôi được phân công về Tiểu đoàn phóng lôi làm văn thư bảo mật. Sau chiến công đánh đuổi tàu Ma-đốc vào chiều ngày 2-8-1964 và chiến thắng trận đầu mùng 5-8-1964 mà quân dân Quảng Ninh đã bắn rơi tại chỗ máy bay Mỹ, bắt sống phi công Mỹ A.Anvarez càng thôi thúc những người lính trẻ chúng tôi được trực tiếp tiêu diệt quân thù nên tôi đã làm đơn và được cấp trên chấp nhận điều về tàu phóng lôi T339 của thuyền trưởng Nguyễn Văn Giản.
Tôi nhớ rất rõ sự kiện ngày 1-7-1966, Phân đội tôi nhận nhiệm vụ đánh tàu chiến Mỹ, ai cũng vui và quyết tâm. Chính uỷ động viên ngắn gọn. Ai cũng hiểu ý nghĩa của trận đánh. Tất cả tư trang của mỗi người cho vào một túi vải bạt treo trên vách đá. Khi ấy tàu của đơn vị đều dựa vào bóng núi đá ở căn cứ để ngụy trang. Mỗi người chỉ mặc một bộ quần áo. Ra trận với quyết tâm sẽ đánh thắng địch trở về, không ai vương vấn đến mất mát hy sinh, lòng bừng bừng khí thế. Ba con tàu phóng lôi rời Bãi Bèo, Cát Bà (Hải Phòng) hướng ra biển khơi tìm địch. Đồng đội trên các con tàu ở căn cứ vẫy chào chúng tôi. Nhân dân trên các con thuyền đánh cá nép trong chân núi đá tránh máy bay Mỹ cũng vẫy chào chúng tôi. Ai cũng tưởng chúng tôi xuất kích như những lần trước. Không ai nghĩ rằng chúng tôi sẽ là nhân chứng cho một sự kiện bi hùng.
Chúng tôi xuất kích chỉ có rada dẫn đường, không có tàu nào phối hợp. Đó chính là yếu tố bất ngờ mà cấp trên muốn sử dụng trong chiến thuật “lấy nhỏ đánh lớn”. Chúng tôi ngang nhiên đối mặt với quân thù. Cờ Tổ quốc phần phật bay trong gió biển nơi cột cờ găm ở đuôi tàu. Sự kiện anh hùng trong trận đánh đuổi tàu Ma-đốc đã được nhiều lần nhắc đến, được tuyên dương. Còn sự kiện ngày 1-7-1966 của Phân đội 3 phóng lôi D135 có lẽ đã đến lúc được kể lại không phải là một chiến bại - hiểu thuần tuý theo nghĩa quân sự, mà chúng tôi muốn được nói đến khí tiết trung kiên của những cán bộ, chiến sĩ, đảng viên Hải quân nhân dân Việt Nam trong sự kiện này.
Phân đội của chúng tôi mới ra đến vùng ven biển ngang đảo Cát Bà thì máy bay Mỹ bay vào đón đánh. Chúng thay nhau phóng rocket xuống các tàu phóng lôi. Trên tàu phóng lôi chỉ có súng 14,5ly và súng bộ binh để chống trả. Do cuộc chiến không cân sức, không có yểm trợ, tàu T339 tự nhiên lại mất liên lạc với đất liền và các tàu T333, T336 (về sau, chúng tôi mới được biết các tàu khu trục Mỹ có cách làm nhiễu thông tin của đối phương). Vì thế, dù đã có lệnh ở đất liền cho Phân đội phóng lôi rút về căn cứ nhưng lệnh đó đã không đến được với chúng tôi. Điều tệ hại thứ hai xảy ra: T339 bị hỏng một máy, tốc độ tàu giảm hẳn, song vẫn luồn lách lao vào chiến đấu. Đầu tiên là T336 bị rocket bắn chìm, toàn bộ cán bộ, chiến sĩ trên tàu hy sinh. T333 cũng bị bắn chìm và hy sinh mất một nửa quân số.
Trước tình thế nguy nan, Tổ Đảng tàu T339 họp khẩn cấp và quyết định: Phá huỷ tàu, không để rơi vào tay địch. Chúng tôi dùng súng AK và lựu đạn bắn vào khoang tàu cho tàu chìm nhanh, rồi từng tổ ba người đeo áo phao tìm cách bơi vào bờ. Tôi được lệnh mở hai hòm khói mù để ngụy trang. Hòm khói mở rồi nhưng mắc kẹt không hất được xuống biển, khói phả ra mù mịt, tôi ho sặc sụa. T339 chìm dần... Mũi tàu hất cao, con tàu như Hòn Đũa hiên ngang trên Vịnh Hạ Long trong nắng chiều. Tôi còn nhìn thấy lờ mờ đỉnh Đèo Nai của Cẩm Phả - quê hương tôi.
Chúng tôi đau đớn nhìn con tàu chìm trong sóng biển. Đại dương mênh mông sẽ ôm ấp những con tàu phóng lôi lịch sử của Hải quân Việt Nam non trẻ. Gần một ngày chống trả máy bay Mỹ, ai cũng mệt, đói, sức lực cạn kiệt. Máy bay Mỹ bay đi. Tàu chiến Mỹ lao đến. Chúng hạ xuồng chiến đấu bao vây, dùng xào móc 19 người còn sống sót lên tàu của chúng, trong đó có 13 người của T339 và 6 người của T333.
Hai năm 1966-1968 nằm trong nhà tù Mỹ, chúng tôi sống thế nào? Có giữ được khí tiết quân nhân cách mạng không? Khi đánh nhau, tàu chúng tôi kéo cờ Tổ quốc, như vậy đánh nhau “kéo cờ”, là “công khai”, “tù binh” sẽ được đối xử theo Công ước quốc tế. Vậy mà hầu hết anh em vẫn bị địch đánh đập để khai thác tin tức. Chúng ta đều biết rằng Mỹ rất cay cú sau sự kiện tàu Ma-đốc bị xua đuổi ra khỏi hải phận Việt Nam chỉ bằng ba chiến tàu phóng lôi nhỏ xíu so với khu trục hạm Ma-đốc. Chúng đã dựng lên sự kiện Vịnh Bắc Bộ đêm mùng 4-8-1964, vu cáo ta đánh tàu chiến Mỹ ở vùng biển quốc tế, để ngày 5-8-1964 dùng nhiều máy bay bắn phá các căn cứ của Hải quân ta từ Thanh Hoá đến Quảng Ninh, mở đầu cuộc không kích miền Bắc. Có cả tướng Mỹ đến thẩm vấn chúng tôi. Chúng tôi đã ngầm thống nhất với nhau phải giữ được khí tiết quân nhân cách mạng, dù có phải hy sinh tính mạng. Để rồi trong cuộc họp giữa hai phái đoàn Việt Nam và Mỹ tại cuộc đàm phán Pari về lập lại hoà bình ở Việt Nam, đã có “món quà” đầu tiên trao nhau: Trao đổi 19 cán bộ, chiến sĩ Hải quân Việt Nam bị bắt với 3 tù binh phi công Mỹ. Mặc cho bọn Mỹ đã nhiều lần dụ dỗ “Các anh quay về sẽ bị ngược đãi. Nếu muốn, chúng tôi sẽ giúp cho các anh sống ở Mỹ” nhưng câu trả lời của chúng tôi là: Không!
CCB Phạm Hùng trong một dịp gặp gỡ đồng đội ôn lại truyền thống. |
Có ai sẽ hỏi: Khí tiết người cộng sản trong những ngày là tù binh của Mỹ ra sao? Xin trả lời bằng những sự việc: Khi mới bị bắt, chúng nhốt chúng tôi trong một hầm tàu. Mỗi người chỉ được mặc độc một chiếc quần đùi nhưng bị tháo hết “giải rút” vì chúng đề phòng tù binh tự tử. Nhưng chúng đã nhầm. Chúng tôi phải sống để trở về với đồng đội, với Tổ quốc. Bọn ngụy quân Sài Gòn rất muốn được giam giữ tù binh Bắc Việt để lấy thêm lời khai nhưng phía Mỹ không đồng ý. Chúng đưa chúng tôi về giam tại một biệt khu trong Trại giam Hoà Cầm, Hoà Vang (Đà Nẵng). Trại giam này có ba khu vực, mỗi khu vực cách nhau bằng nhiều hàng rào kẽm gai. Chi bộ Đảng của chúng tôi gồm 8 đồng chí do Thuyền trưởng Nguyễn Văn Giản làm Bí thư Chi bộ vẫn bí mật hoạt động. Chi bộ đã làm mọi việc để mọi người giữ được khí tiết quân nhân cách mạng, không cung khai điều gì có hại cho Tổ quốc.
Khi về đến trại giam Hoà Cầm, Chi bộ Đảng lại liên lạc được với Tổ chức Đảng trong trại giam. Những tin chiến thắng của miền Bắc, miền Nam được tổ thông tin của chi bộ thu lượm được qua chiếc radio mà lính gác Mỹ cho chúng tôi mượn. Số là trong khu biệt giam 19 người chúng tôi luôn có lính Mỹ thay nhau ngày đêm canh gác. Khi thay gác xong thì cổng khu biệt giam cũng khoá lại, tù binh thì qua 2 lần khoá, còn lính gác Mỹ cũng bị một lần khoá. Lính Mỹ lại nổi tiếng là “lính cậu” chơi bời, trác táng, đến phiên gác là mệt mỏi ngủ gật liên hồi. Chi bộ Đảng thành lập tổ Thông tin do tôi làm tổ trưởng cùng 2 tổ viên là Bùi Thượng Tính và Đặng Văn Phú. Chúng tôi tự dạy nhau tiếng Anh, tìm cách tiếp cận lính gác Mỹ và “giao kèo”: Tù binh canh chừng cho lính Mỹ ngủ, nếu có cấp trên của chúng kiểm tra thì đánh thức chúng dậy. Đổi lại, lính gác Mỹ cho chúng tôi mượn 1 radio. Chính từ chiếc radio này chúng tôi đã biết tin tức về miền Bắc đã và đang hạ được bao nhiêu “Thần Sấm”, “Con Ma” của Mỹ, cũng như những tin tức chiến thắng trong đấu tranh của đồng bào miền Nam. Chúng tôi thu thập tin tức, tìm cách tiếp cận thông báo cho bà con của mình bị Mỹ nguỵ bắt giam ở nhà tù bên cạnh. Tin chiến thắng đã động viên chúng tôi rất nhiều.
Còn nữa, những hành động giữ vững khí tiết cách mạng và một lòng hướng về miền Bắc thân yêu của chúng tôi: Đó là sáng sáng, chúng tôi xếp hàng tập thể dục đều đặn, những động tác mạnh mẽ, những tiếng hô dõng dạc đã gây hứng thú cho các bạn tù. Tập xong chúng tôi lại hát vang những ca khúc cách mạng. Tụi lính Mỹ lúc đầu tưởng tù binh Bắc Việt thích ca hát. Đến khi biết được mục đích, ý nghĩa những bài ca, chúng liền cấm chúng tôi hát. Tất cả 19 người tuyệt thực 3 ngày đòi được đảm bảo sinh hoạt tinh thần. Giám thị trại giam phải chấp nhận bởi vì chúng biết chúng tôi là những tù binh đặc biệt “có giá” để trao đổi những tù binh phi công Mỹ.
19 người được trao trả năm 1968 qua gần 3 năm học tập chính trị, rút kinh nghiệm, chúng tôi được đưa về các đơn vị kĩ thuật công tác. Xa đơn vị trực tiếp chiến đấu, chúng tôi nhớ lắm nhưng biết làm sao được, bởi ở đơn vị chiến đấu còn những yêu cầu khác cao hơn. Tôi được khôi phục sinh hoạt Đảng và được tính tuổi Đảng liên tục đến đầu năm 1973 thì được chuyển ngành về công tác tại Đài Phát thanh Quảng Ninh (nay là Đài Phát thanh - Truyền hình), là hội viên Hội VHNT Quảng Ninh.
Mỗi năm, đến ngày kỷ niệm truyền thống Hải quân nhân dân Việt Nam và Chiến thắng trận đầu (5-8), chúng tôi lại tổ chức thả hoa tại Cửa Lục, Vịnh Hạ Long tưởng niệm các đồng đội đã ngã xuống trong cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc - Một vùng biển đảo thân yêu, nơi xuất kích của những con tàu phóng lôi cảm tử mà ngày nay đã trở thành kỳ quan thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước tới thăm.
Nguyễn Gia Phong (TP Hạ Long)
Liên kết website
Ý kiến ()