Tất cả chuyên mục
Thứ Bảy, 20/04/2024 19:37 (GMT +7)
Xây dựng, quản lý sử dụng công trình cấp nước sạch nông thôn: Cách nào giải quyết những khó khăn?
Thứ 4, 17/08/2016 | 12:57:05 [GMT +7] A A
Quảng Ninh là một trong 8 tỉnh, thành khu vực Đồng bằng sông Hồng triển khai Chương trình nước sạch và vệ sinh nông thôn dựa trên kết quả đầu ra từ vốn vay của Ngân hàng Thế giới (WB) (PforR). Mục đích của chương trình nhằm thay đổi nhận thức, chuyển biến hành vi của người dân nông thôn về vệ sinh; đưa nước sạch về khu vực nông thôn, miền núi để cải thiện điều kiện sử dụng nước sinh hoạt, từ đó nâng cao sức khoẻ và chất lượng sống cho người dân nông thôn. Ý nghĩa, thiết thực là vậy, song hiện việc triển khai chương trình này vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn cần sớm có giải pháp khắc phục kịp thời.
Gia đình chị Đặng Thị Mai (thôn Khe Hố, xã Hải Lạng, huyện Tiên Yên) phấn khởi được sử dụng nước sạch từ Chương trình PforR. |
Ông Nguyễn Việt Anh, Giám đốc Trung tâm Nước sinh hoạt và Vệ sinh môi trường nông thôn, cho biết: Nước sạch đóng vai trò quan trọng trong đời sống và sức khoẻ của người dân. Tuy nhiên, việc “khát” nước sạch vẫn đang diễn ra ở một số khu vực nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Do điều kiện kinh tế khó khăn, địa hình phức tạp, người dân ở những vùng này thường sử dụng nguồn nước tự nhiên, nước tự chảy hoặc nước giếng đào không đảm bảo hợp vệ sinh nên ảnh hưởng không nhỏ đến sức khoẻ của bà con nơi đây. Chính vì vậy, ngay khi bắt tay vào triển khai Chương trình PforR, Trung tâm đã lựa chọn xây dựng 10 công trình cấp nước sạch tại các địa phương Đông Triều, Tiên Yên, Quảng Yên, Đầm Hà, Hải Hà và Móng Cái với tổng kinh phí thực hiện Chương trình là 420 tỷ đồng. Tính đến ngày 31-7, đã có 4 công trình hoàn thành đưa vào sử dụng, đang cấp nước phục vụ nhân dân, gồm: Công trình cấp nước xã Hồng Thái Tây - Hồng Thái Đông (Đông Triều), công trình cấp nước xã Hải Lạng (Tiên Yên), công trình cấp nước xã Hiệp Hoà (Quảng Yên), công trình cấp nước xã Tân Bình (Đầm Hà). Chất lượng nước sau xử lý của các nhà máy cấp cho người dân đều được duy trì ổn định đạt tiêu chuẩn QCVN02/2009/BYT và được kiểm nghiệm định kỳ theo quy định hiện hành. Tỷ lệ thất thoát nước trung bình từ 12-16%, thấp hơn nhiều so với yêu cầu của nhà tài trợ 25%.
Qua tìm hiểu thực tế cho thấy, việc thực hiện Chương trình PforR trên địa bàn tỉnh vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, bất cập. Do tính chất đặc thù, các công trình cấp nước có địa bàn thi công trải rộng, theo tuyến, có nhiều vị trí giao cắt với các công trình hạ tầng kỹ thuật khác, như: Đường bộ, đường sắt, cáp thông tin, đường ống xăng dầu... nên quá trình triển khai gặp nhiều vướng mắc về mặt bằng thi công, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện. Mức bố trí vốn có tỷ lệ thấp hơn nhiều so với thuyết minh đề tài, giá trị khối lượng đã thực hiện cao hơn nhiều so với kinh phí được cấp. Theo điều kiện Chính phủ đã cam kết với WB, các công trình nhà máy nước phải có tối thiểu 60% số hộ dân đấu nối sử dụng nước trong năm đầu, 80% số hộ dùng trong năm thứ 2 và đóng góp đầy đủ kinh phí đầu tư xây dựng công trình, ký hợp đồng, đóng tiền sử dụng nước. Tuy nhiên, số đấu nối thực hiện hiện đạt thấp hơn nhiều so với thiết kế. Đến nay, tổng số đấu nối của 4 công trình cấp nước thuộc chương trình đạt được 4.017/8.082 đấu nối thiết kế, trong đó, 6 tháng đầu năm nay, thực hiện được thêm 1.303 đấu nối. Tuy nhiên, hầu hết số đấu nối của các công trình đều chưa đạt đủ điều kiện đã cam kết. Chẳng hạn, hoàn thành từ 19-2-2015 song đến nay, công trình cấp nước xã Hồng Thái Đông - Hồng Thái Tây mới thực hiện 1.095/3.533 đấu nối, bằng 31% so với thiết kế; công trình cấp nước xã Tân Bình thực hiện 442/937 đấu nối, bằng 47,2% so với thiết kế; công trình cấp nước xã Hải Lạng thực hiện 613/1.214 đấu nối, đạt 50,49% so với thiết kế... Có tình trạng này là bởi người dân hiện vẫn chưa nhận thức đầy đủ về những lợi ích của việc dùng nước sạch mà vẫn giữ thói quen dùng các nguồn nước hiện có mặc dù các cơ quan thực hiện chương trình đã phối hợp với địa phương thường xuyên tổ chức tuyên truyền, cung cấp thông tin về chương trình bằng nhiều hình thức. Bên cạnh đó, đa số người dân vẫn còn tâm lý trông chờ vào sự đầu tư của Nhà nước nên không muốn bỏ kinh phí đóng góp xây dựng công trình. Do vậy, việc triển khai thu 10% kinh phí đóng góp của người sử dụng nước theo quy định còn gặp nhiều khó khăn. Mức sử dụng nước sinh hoạt bình quân đầu người thấp nên doanh thu thấp, mới chỉ đủ chi một phần cho quản lý vận hành, chưa có tích luỹ, duy tu bảo dưỡng, đặc biệt chưa có tích luỹ để trả nợ WB v.v..
“Để giải quyết các khó khăn cũng như thực hiện chương trình đạt hiệu quả, thời gian tới, các địa phương tăng cường phối hợp tổ chức tuyên truyền vận động nhân dân đăng ký đấu nối sử dụng nước từ các công trình cấp nước thuộc Chương trình PforR; phối hợp tháo gỡ khó khăn về mặt bằng thi công giúp chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình. Đồng thời, tỉnh có chính sách cấp bù giá nước để Trung tâm có đủ kinh phí quản lý khai thác các công trình cấp nước nông thôn bền vững; xem xét miễn thu phí khai thác nước thô để đơn vị quản lý khai thác giảm bớt chi phí sản xuất hạ giá thành nước tiêu thụ” - Ông Nguyễn Việt Anh cho biết.
Hoàng Anh
Liên kết website
Ý kiến ()