Tất cả chuyên mục
Thứ Bảy, 20/04/2024 09:41 (GMT +7)
Sông Mang, ai khéo đặt tên?
Chủ nhật, 14/06/2015 | 14:05:45 [GMT +7] A A
Mọi dòng sông đều đổ về với biển. Nhưng con sông này nằm trên biển thì đổ về đâu? Tôi tự hỏi và thầm nghĩ, có lẽ con sông tự chảy vào thẳm sâu cõi lòng của chính mình... Tôi đang nói đến dòng sông Mang, nơi gắn liền với chiến công hiển hách trong lịch sử chống ngoại xâm thời nhà Trần. Để hôm nay, sông Mang vẫn mang trong mình biết bao huyền thoại...
Đã từng có một thời thuyền bè về đậu san sát hai bên bờ sông Mang. |
Dùng dằng, con sông không chảy
Thuyền chúng tôi xuất phát từ bến Con Quy (ở xã đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn) để bắt đầu chuyến du thuỷ trên sông Mang. Con thuyền gỗ nổ máy xình xịch lìa bến. Tiếng máy vang lên chậm rãi, chắc nịch khiến tôi cứ ngỡ như mình đang nghe từng bước chân của lịch sử từ một nơi nào đó rất mơ hồ đã đi qua trên vùng đất này. Trong lịch sử, người phương Bắc chỉ nhìn thấy cái đứt gãy của núi non trên biển nên gọi Vân Đồn là Đoạn Sơn. Cao Hùng Trưng, một người sống ở thời mạt Minh sơ Thanh, chép rằng: “Vân Đồn sơn, tức Đoạn Sơn ở huyện Vân Đồn trong biển. Hai ngọn núi đứng đối nhau, một dải nước chảy thông ở giữa, tại đó đóng kè gỗ, dựng làm cửa biển. Nhà dân dọc hai bên bờ. Thời Lý thuyền buôn các nước tụ tập nhiều ở đó”.
Cái “dải nước chảy thông ở giữa” mà Cao Hùng Trưng đề cập không gì khác chính là dòng sông Mang. Mọi sự tồn tại đều có lý do của nó. Trên đất liền, nước từ chỗ cao chảy xuống chỗ thấp, chảy mãi thì thành sông, suối. Trên biển, cũng có thuỷ triều, hải lưu. Sông Mang sinh ra, tồn tại để tự khẳng định mình. Dòng Mang chỉ vỏn vẹn dài độ chừng ba cây số. Để đi hết cái dòng xanh chỉ có 3 cây số ấy bằng tàu gỗ cũng mất chừng 2 tiếng. Đấy là lúc thuận buồm xuôi gió. Cũng quãng đường ấy mà chạy ngoài biển động có khi mất cả ngày. Mà nếu gặp gió mùa đông bắc nữa thì không tài nào nhích lên được.
Bắt đầu từ Cửa Đối, sông Mang uốn lượn làm duyên với núi non thành một dải như thể thắt lưng xanh khổng lồ của cô gái làng Liễu Mai sơ ý bỏ quên trong một đêm trăng tình tự. Gọi là sơ ý thôi chứ thực ra có tình ý trong đó cả. Chỉ tội cho chàng thôn dân quê mùa không biết đó là vật làm tin mà giữ chặt vào lòng. Để đến nỗi khăn rơi xuống biển hoá thành một dòng xanh mênh mang.
Tôi chưa có điều kiện đi hết hơn 3 nghìn cây số bờ biển của Việt Nam ta. Nhưng có lẽ, theo tôi dòng Mang là con sông duy nhất trên đất nước hình chữ S này đăng ký “hộ khẩu” ở trên biển. Thêm nữa, cũng bởi nằm giữa biển, chẳng có thượng nguồn và hạ lưu nên ít người nhận thấy mặt nước chảy trôi bao giờ. Mỗi khi thuỷ triều lên, nước từ hai đầu dồn về khúc giữa. Từ tốn và nhẹ nhàng như phút giây lưu luyến ban đầu. Khi thuỷ triều rút cũng vậy. Nước lặng lẽ chảy ra hai đầu, phơi dần những bờ bãi. Cũng từ tốn, bịn rịn như cảnh tống biệt cố nhân. Nếu ai đó cả đời gắn bó với sông mới phát hiện ra sông có chảy thì sóng cũng lặng, nước cũng trôi lững lờ. Tôi cố áp tai vào thành tàu để nghe cho được tiếng nước chảy vỗ vào 2 mạn. Dù cố gắng đến mấy cũng chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng máy nổ trong khoang.
Nhờ biển lặng, sóng êm mà sông Mang là nơi rất thuận lợi cho các loài hải sản trú ngụ. Đây là vựa tôm cá khổng lồ. Người dân ở đây bảo, xưa ngán nhiều đến nỗi chỉ cần vơ một cái là đầy rổ. Cá sẵn đến mức chỉ cần buông câu một lát đã kéo lên chú cá vài ba cân. Nước lặng sóng dừng cũng thuận lợi cho thuyền bè đi lại. Bà con ngư dân đi biển mỗi khi mưa bão cũng tìm vào buông neo cập bờ, nhờ con sông Mang bao dung dang tay che chở.
Nhưng cũng chính cái êm đềm của sông đã bị thế lực ngoại bang lợi dụng. Lần thứ ba sang xâm lược nước ta, đại quân Nguyên Mông đang thiếu hụt lương thực nghiêm trọng, đoàn thuyền lương tiếp tế chắc chắn sẽ tìm con đường đi ngắn nhất, nhanh nhất chứ không dại gì mà đi ngang ra Cát Bà để đối mặt với sóng gió biển khơi. Sông Mang là lựa chọn tối ưu nhất. Ít ra, các tay chèo cũng tận dụng được 3 cây số biển êm rồi vát ven bờ qua Hòn Đũa mà vào. Thêm nữa, hai bên sông có núi cao che chắn, thử hỏi có chỗ nào giấu được 17 vạn thuyền lương hay hơn đi vào đường này. Còn rủi thay nếu đi đúng vào hôm có gió mùa đông bắc thì chạy vào sông Mang mà vát thuyền theo hình chữ “Chi” vẫn có thể đi được.
Ông Tính nhớ lại ký ức tuổi thơ bên dòng sông. |
Sông Mang và những mạch ngầm
Sông Mang không đầu không cuối hiền lành kia đã không để bị lợi dụng. Hay nói đúng hơn, con sông đã trở mình, dịu êm bề nổi mà dữ dội bề sâu. Cái mạch ngầm dữ dội của dòng sông đã cuộn chảy nhấn chìm đội quân cướp nước, vinh danh những nhân vật huyền thoại, chiến công lẫy lừng. Trong đó không thể không kể đến danh tướng Trần Khánh Dư. Huyền thoại và lừng lẫy khí tiết ngay cả khi thất thế. Dân gian vẫn truyền rằng khi đi bán than Trần Khánh Dư vẫn nghêu ngao đọc, cho con trẻ học theo bài ca: “Một gánh càn khôn quẩy xuống ngàn/ Hỏi rằng chi đó? Gửi rằng Than…”. Cũng nhờ việc bán than với cái khí phách ấy mà vua Trần đã nhận ra rồi khôi phục chức tước xoá bỏ án phạt cho Trần Khánh Dư, lại còn cử ra trấn giữ Vân Đồn...
Hơn ai hết tướng Trần Khánh Dư hiểu rằng, với 30 vạn quân, nhà Nguyên khó mà có thể huy động hàng chục vạn phu phen gánh gạo theo quân tiếp viện bằng đường bộ được nên phải đi đường biển. Bởi vậy, 17 vạn thạch lương mà Trương Văn Hổ mang theo qua Vân Đồn là toàn bộ sự trông cậy của đại quân Nguyên Mông. Phá tan đoàn thuyền tiếp lương cũng chính là chặn cái yết hầu của địch. Quả nhiên, Trần Khánh Dư đã đẩy Thoát Hoan vào cái bi kịch đại quân đến mà đoàn thuyền lương chưa đến, ngày ngày phải trèo lên núi ngóng chờ. Còn Ô Mã Nhi thì chạy ra cửa biển Đại Bàng, rồi ra tận cửa biển An Bang mỏi mòn mà không thấy. Cả Thoát Hoan và Ô Mã Nhi đâu có ngờ rằng, thuyền lương hầu hết đã bị Trần Khánh Dư nhấn chìm xuống sóng nước dòng Mang.
Trần Khánh Dư không chỉ là danh tướng trấn giữ về quân sự, ông còn giữ mạch nguồn văn hoá cho vùng đất bên sông. Ông là người chấn hưng văn hoá, cổ vũ tinh thần dân tộc. Có thể nói, Trần Khánh Dư là một quý tộc có tư duy thương nghiệp đầu tiên và điển hình nhất thời Trần. Ông ra lệnh cho dân chúng không dùng nón của phương Bắc mà phải dùng nón trong nước được chở ra từ Hồng Lộ (Hải Dương). Như thế, tư tưởng “Người Việt dùng hàng Việt” không phải bây giờ mới có mà đã xuất hiện từ thời Trần (!).
Gần 7 thế kỷ sau chiến thắng của Trần Khánh Dư, sông Mang lại nổi sóng. Bom Mỹ quần thảo dòng sông. Ông Vũ Xuân Tính, một cư dân ven sông, kể cho tôi nghe những kỷ niệm năm 1964, ông cùng chúng bạn tản cư sang bên kia sông khi máy bay Mỹ ném bom tiêu diệt đoàn tàu chi viện cho chiến trường miền Nam. Sự kiện mới như ngày hôm qua làm hai khoé mắt ông ngân ngấn nước. Ông kể, có chừng 20 vụ ném bom. Làng ông có mười người hy sinh vì bom Mỹ. Bên bờ Bắc sông Mang những người chưa kịp tản cư người mất nhiều hơn. Có hai người bạn nối khố của ông cũng nằm lại nơi đáy sông Mang này. Cũng may, con sông bao dung như lòng mẹ ôm ấp chở che, không đưa thi thể ra biển nên nhiều ngày sau dân làng cũng tìm thấy họ.
Như một lão ngư thực thụ, ông Vũ Xuân Tính chỉ cho tôi những luồng lạch chương cát. Nào là cống Ông, cống Bà, hòn Tỏi, hòn Cồn Trắng, hòn Cồn Trụi, hòn Đầu Trâu v.v.. Ông bảo đó là nhờ trước kia, nhiều đêm ông Tính cùng với đoàn thuyền vận tải lại lên đường chi viện cho chiến trường. Ông mơ ước giá như đừng có chiến tranh bom đạn, ông được sống lại tuổi học trò, cùng bạn bè vượt núi vượt sông xách bồ lên núi hái thanh mai.
Có một mạch ngầm khác chưa được nói đến là nguồn mạch văn hoá. Mỗi năm sông Mang bồi lắng thêm độ chừng mười phân. Nhưng mạch ngầm nước sông Mang không vì thế mà bị chặn. Mà cũng chẳng ai chặn nổi mạch ngầm ấy cả. Cái mạch nước lờ lợ kia ngấm qua đất cát Quan Lạn mà trở nên ngọt ngào. Chẳng thế mà xưa kia, các cụ nhà ta đã đào giếng ven sông để lấy nước ngọt. Con gái tắm nước giếng ấy cũng như đẹp hơn. Thế nên, mới có câu rằng: “Ra đi tóc mới chấm vai/ Tắm nước giếng Hệu tóc dài ngang lưng”.
Người ta bảo rằng, do được “tắm” trong cái thổ nhưỡng này nên con gái Liễu Mai mới đẹp đến nhường vậy. Mà không, phải là tắm nước sông Mang, “tắm” trong bầu văn hoá đậm đà. Nước sông Mang là nước biển. Thượng nguồn và hạ lưu đều là biển. Biển nuôi dưỡng con người. Biển tạo nên mạch đập văn hoá. Biển còn tạo ra một sự khao khát đoàn viên. Lại nhớ truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng nở ra trăm con. 50 con theo mẹ lên núi, 50 con theo cha xuống biển. Sự chia lìa ấy làm nảy sinh ra tâm thức dân tộc Việt luôn hướng về phía biển. Lịch sử của người Việt cũng là lịch sử từ núi xuống lấn biển. Biển vừa là nơi khơi nguồn, đồng thời cũng là nơi trở về. Thảo nào mà con sông Mang cứ dùng dằng không chảy...
Giai điệu kết thúc
Sông Mang kết thúc ở hòn Cồn Giai. Cồn không lớn lắm. Tôi mường tượng nếu như dòng sông Mang là một câu văn hào hùng thì Cồn Giai là dấu chấm câu. Chấm đấy nhưng không phải kết thúc, bởi Cồn Giai mở ra cả một biển trời mênh mông. Giáo gươm bỏ lại dưới lòng sâu, sông Mang trôi về phía biển khơi hiền lành như thuở hồng hoang. Anh bạn đồng hành với tôi thì lại ví hòn Cồn Giai như giai điệu khép lại một trường ca bất hủ...
Bút ký của Huỳnh Đăng
Liên kết website
Ý kiến ()