Tất cả chuyên mục
Thứ Năm, 25/04/2024 15:09 (GMT +7)
Xu hướng tất yếu của giao thông đường bộ Quảng Ninh
Thứ 7, 25/08/2012 | 05:02:55 [GMT +7] A A
Thực tế cho thấy, càng ở các nước phát triển, hệ thống các phương tiện công cộng như tàu điện ngầm, taxi, xe buýt càng phát triển mạnh. Quảng Ninh hướng đến mục tiêu tỉnh dịch vụ, công nghiệp theo hướng hiện đại thì tất yếu phải có quy hoạch phát triển hệ thống các phương tiện công cộng, trong đó có xe buýt. Sở GT-VT Quảng Ninh đang dự thảo Quy hoạch vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2020. Đây là việc làm rất cần thiết để đảm bảo cho sự phát triển của hình thức vận tải hành khách công cộng này diễn ra đúng hướng.
Ở Quảng Ninh, hoạt động vận chuyển hành khách công cộng bằng xe buýt được triển khai muộn, bắt đầu từ tháng 2-2007. Sau 5 năm hoạt động, dù các chính sách ưu đãi chưa đáp ứng yêu cầu, nhưng các tuyến xe buýt đã nhanh chóng phát triển, góp phần quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân và du khách. Từ chỗ ban đầu chỉ có 5 tuyến trên địa bàn TP Hạ Long và huyện Hoành Bồ, đến nay toàn tỉnh có 9 tuyến gồm: 3 tuyến nội thị; 5 tuyến nội tỉnh và 1 tuyến liền kề (Hải Dương - Uông Bí). Số người sử dụng phương tiện này đã tăng từ 6,56 triệu lượt năm 2007 lên 12,6 triệu lượt năm 2011.
Điểm dừng đón, trả khách của các tuyến xe buýt trên địa bàn tỉnh chưa được chú trọng đầu tư. |
Vận tải hành khách bằng xe buýt đã góp phần tiến tới các mục tiêu: Hạn chế ùn tắc giao thông; giảm mật độ phương tiện cá nhân tham gia giao thông; tạo nét văn minh đô thị; thực hiện được chức năng kết nối các tuyến vận tải khách. Tuy nhiên, theo đánh giá của Sở GT-VT thì hoạt động này còn quá nhiều hạn chế. Cụ thể, cự ly một số tuyến chưa hợp lý, nhiều đoạn trên QL18A có nhiều tuyến xe buýt cùng khai thác dẫn đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp không cao... Khoảng cách tối đa giữa 2 điểm dừng đón, trả khách ngoài đô thị là 3km không phù hợp, gây khó khăn cho người dân. Hệ thống điểm dừng, biển báo, nhà chờ xe buýt đã được đầu tư tuy nhiên một số đã bị mất, bị hư hỏng, một số chưa theo tiêu chuẩn chung. Các xe buýt đang được khai thác chủ yếu được lắp ráp trong nước, gầm bệ nhập khẩu từ Trung Quốc sau thời gian khai thác sử dụng xuống cấp nhanh, chất lượng phương tiện không đảm bảo. Các doanh nghiệp chưa ổn định về bến, bãi đầu cuối trên các tuyến; các điểm sửa chữa, bảo dưỡng phương tiện, văn phòng điều hành... phần lớn phải thuê nên doanh nghiệp chưa ổn định kinh doanh. Quản lý nhà nước đối với hoạt động này dù đã được tăng cường nhưng chưa chặt chẽ, chưa hình thành được các trung tâm quản lý điều hành như ở TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh... Đồng thời chưa có quy chế quản lý điều hành hoạt động vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt trên địa bàn tỉnh để phân rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước cũng như quyền, nghĩa vụ của các doanh nghiệp xe buýt. Điều này dẫn đến có thời điểm một số doanh nghiệp, điển hình là Công ty CP Bus Vân Đồn, chưa chấp hành tốt các quy định về hoạt động xe buýt. Ngoài ra, trong hoạt động này còn một số tồn tại khác là: Chưa quan tâm đầu tư các hạng mục công trình phụ trợ trợ giúp người khuyết tật; tuyên truyền, vận động người dân sử dụng xe buýt chưa thực sự được chú trọng.
Từ sự phân tích, đánh giá trên đây, căn cứ vào định hướng phát triển hạ tầng GT-VT đã được phê duyệt và dự báo nhu cầu vận tải bằng xe buýt, dự thảo Quy hoạch vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2020 đã đưa ra các mục tiêu phát triển. Mục tiêu tổng quát là: Phát triển vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt đồng bộ và tương thích giữa các loại hình vận tải trong đô thị và từ trung tâm đô thị đến các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và đến các tỉnh lân cận; cung cấp dịch vụ xe buýt thuận tiện, phù hợp với nhu cầu đi lại của đa số người dân, phù hợp và hỗ trợ tốt các loại hình vận tải khách nhằm khuyến khích người dân sử dụng xe buýt, hạn chế sử dụng phương tiện cá nhân, góp phần giải quyết ùn tắc giao thông khi đô thị ngày càng phát triển... Đến năm 2020, phát triển hệ thống xe buýt đáp ứng 32 triệu lượt hành khách/năm; hệ thống xe buýt giữ vai trò chủ đạo trong vận tải hành khách công cộng tại khu vực nội thị của tỉnh...
Để thực hiện được mục tiêu trên đây, bản dự thảo đã đề xuất các quy định về bố trí tuyến và phương tiện. Chẳng hạn như: Cự ly các tuyến xe buýt đáp ứng yêu cầu tối đa 60km; khoảng cách tối đa giữa 2 điểm dừng đón, trả khách liền kề trong nội thị là 700m; ngoài thị là 3km... Về loại phương tiện, phát triển xe buýt tiện nghi, thân thiện môi trường, sử dụng xe 29 chỗ cho các tuyến có lượng khách nhỏ và bề rộng mặt đường hẹp; xe B40 B50 cho các tuyến còn lại.
Dự thảo Quy hoạch vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2020 cũng đưa ra quy hoạch giai đoạn đầu đối với các tuyến nội thị, tuyến nội tỉnh, tuyến liền kề và phân bố các tuyến vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt đến năm 2015; định hướng phát triển các cơ sở phụ trợ; các giải pháp thực hiện. Khái toán nhu cầu vốn đầu tư để thực hiện Quy hoạch khoảng trên 307 tỷ đồng.
Cùng với xe buýt, các thành phố lớn, hiện đại đều có hệ thống tàu điện ngầm. Vì thế, ngay từ bây giờ chúng ta cũng nên đề ra chiến lược, quy hoạch phát triển hệ thống giao thông này để đáp ứng tốt yêu cầu phát triển của tỉnh.
Ngọc Hà
Liên kết website
Ý kiến ()