Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 29/03/2024 22:42 (GMT +7)
Bánh đúc có xương
Thứ 7, 30/03/2019 | 07:54:16 [GMT +7] A A
LTS. Tác giả Tăng Văn Tĩnh hiện công tác ở Ban CHQS huyện Bình Liêu. Với niềm đam mê văn chương, anh cầm bút viết văn chỉ là tay ngang. Tuy nhiên, truyện ngắn của anh không hề non tay mà hấp dẫn bạn đọc ở sự giản dị, chân thành. Quảng Ninh Cuối tuần số này xin giới thiệu một sáng tác mới của anh.
Từ ngày nghỉ hưu, sáng chủ nhật nào bà Nga cũng dậy sớm ra chợ đầu phố, lựa mấy thứ về để tự tay bà nấu món ăn mà mấy đứa cháu nội ở cùng với ông bà thích ăn. Chả là ngày thường, các cháu của bà đều vội đi học sớm, nên phải ăn nhanh ở quán. Cả con lẫn cháu ai cũng bảo bà làm vậy vất vả. Nhưng bà không đồng ý. Bà bảo: “Bà làm vậy lại thấy vui thêm, khỏe thêm, cứ để cho bà làm”.
Những ngày nghỉ bà Nga vui lắm, vui vì ngày nghỉ được quây quần bên con cháu; nhưng có lẽ bà vui nhất là đứa cháu gái con thứ hai của con trai cả lúc nào cũng quẩn quanh vui chuyện cùng bà. Nó hợp với bà từ khi còn nhỏ, cứ khi nó khóc, mẹ nó cũng không dỗ nổi nó nín mà chỉ có bà Nga nựng là nó không khóc. Hình như nó thích nghe bà nội nó hát ru thì phải? Từ năm lên học cấp ba, cứ ngày nghỉ nó chẳng mấy khi đi chơi đâu, chỉ quẩn quanh xem bà nội nấu ăn và nghe bà nội kể chuyện. Nó thích nhất nghe bà kể chuyện về người vùng cao, nghe kể những chuyện khi ông bà nội nó còn công tác ở vùng cao biên giới. Mà phải nói bà Nga cũng có nhiều chuyện, nhiều vốn sống. Bà kể với cháu bao năm qua mà không hết chuyện. Không riêng chỉ chiều lòng đứa cháu nội con của con trai cả, mà cứ ai hỏi về chuyện khi xưa bà cùng với chồng công tác trên miền ngược là bà kể nhiều lắm. Bà kể chuyện đời bà, đời ông, đời người, kể trong nước mắt và trong tiếng cười đôn hậu của người phụ nữ vùng cao. Bà kể tự hào với con cháu khi xưa bà cùng chồng mình trải qua bao đắng cay, ngọt bùi nơi vùng biên viễn ấy.
Thời chưa lấy chồng, bà đẹp lắm, đôi mắt bồ câu, mái tóc dài đen, làn da trắng, cùng với sự căng tràn của cô thiếu nữ vùng sơn cước. Là người có giọng hát hay, lại là một trong những cô gái ham học hỏi, chịu khó lao động, bà làm cho bao chàng trai trong và ngoài bản si mê… Thế mà bà chưa đồng ý lấy một ai. Bà nói với bố mẹ: “Con phải gắng học, gắng đem cái chữ về bản, làng mình mới được…”. Vậy là bà đã thi đỗ và học trường sư phạm, học xong bà về huyện nhà công tác.
Bà nhớ lắm, nhớ cái buổi chiều mưa như quất vào mặt, gió như muốn hất tung mọi thứ trên mặt đất. Chiếc áo mưa mỏng của bà bị cơn gió xé toạc, bỗng có anh bộ đội cởi chiếc áo mưa trên người đưa cho bà: “Cô khoác vào đi, cảm lạnh bây giờ, cô vào đi để bộ đội chúng tôi chống bão ngoài này được rồi… vào đi không nguy hiểm lắm”. Bà chưa kịp nói, anh bộ đội đã tự khoác chiếc áo mưa quân nhu lên người bà, bà ú ớ chưa kịp nói lời cảm ơn, anh bộ đội đã lao đi cùng đồng đội chằng mái tôn của trường học cho gió khỏi bật lên… Cũng chính cái buổi chiều mưa định mệnh đó để bà quen ông, hiểu về hoàn cảnh ông, là bạn tâm giao với ông và bà yêu ông lúc nào không biết. Đám cưới của ông và bà diễn ra ngay trong doanh trại của bộ đội. Lấy ông khi đó, bà đã hai mươi sáu tuổi, ngày cưới bà như bông hoa rừng khoe sắc, đứng bên một anh bộ đội dáng vẻ phong trần, lam lũ nhưng thật thà, chất phác. Ai đến dự cưới cũng mừng cho đôi trai tài, gái sắc, mừng cho mối lương duyên như số trời đã sắp đặt…
Cứ mỗi lần nhớ chuyện khi mới lấy ông, mắt bà ngấn lệ. Bởi khi lấy ông, cả hai đều đôi bàn tay trắng, hai bên gia đình nghèo khó. Ông phải ngược xuôi vay mượn bạn bè để sửa lại gian nhà tập thể của cơ quan cho ông mượn. Gian nhà đó vẻn vẹn chỉ có hơn mười bảy mét vuông, không có bếp. Vậy mà ở gian nhà ấy đã bao năm để bà nuôi dạy hai đứa con một trai, một gái; gian nhà đó cũng biết bao vui, buồn, in đậm lo toan… Khi bà sinh hạ cô con gái thứ hai, ông cứ đi công tác biền biệt. Đồng lương ông khi đó chỉ đủ để ông chi tiêu, dè xẻn lắm cũng chỉ còn lại đôi chút đưa cho bà. Một mình bà “trăm dâu đổ đầu tằm”, tiền sữa cho cô con gái thứ hai, tiền đóng học phí cho cậu con trai cả, tiền gửi về quê phụ giúp bố mẹ chồng đã già yếu và bao nhiêu khoản chi khác nữa, trong khi đó đồng lương giáo viên eo hẹp... Đêm đến khi các con đã ngủ, tập giáo án đã xong, bà vò võ thêu tranh thuê, cạo vỏ quế, thái măng và bóc lạc thuê cho quán ăn… để có thêm thu nhập, trang trải chi tiêu. Lấy chồng được mấy năm mà cái tuổi hơn ba mươi một chút của bà bị công việc, gia đình cuốn đi lúc nào không hay.
Vất vả là vậy, khó khăn bao nhiêu bà chỉ thấy mệt chút nhưng không buồn. Bà chỉ buồn, nỗi lòng đó bà không cởi lòng với ai được. Người ta nói miệng thiên hạ còn đỡ, đây lại là những suy nghĩ không thấu đáo từ chính một số anh, chị em ruột bên gia đình chồng. Chỉ vì tính bà rất thẳng thật nên một số anh, chị em không ưa, nhất là vợ chồng cô em gái thứ hai của chồng, lúc nào cũng cái giọng đạo đức giả, chỉ giỏi thêu dệt, cay nghiệt, làm cho nhiều người bên ngoài hiểu lầm về bà. Họ cho là bà sống cay nghiệt với con cái, thậm chí còn ác với con, nhất là đối xử với cậu con trai cả không ra gì. Không những thế, mọi chuyện còn được cô em gái thứ hai này thêu dệt như thật, rằng là lúc ông đi học, bà thất tiết với chồng. Cô ta hay nói đổng ý chỉ bà Nga: “Cái loại sống thất lễ với gia đình chồng, loại mất dạy. Con dâu thì khác máu tanh lòng...”. Những điều đó, ai từ một huyện miền núi cách xa quê chồng gần ba trăm ki lô mét về mà tìm hiểu.
Bà Nga đau lắm, bà không dám nói với chồng, sợ ông suy nghĩ ảnh hưởng tới công việc. Những điều đó chỉ có chồng bà hiểu, tin bà, là điều an ủi nhất để bà cố gắng trong cuộc sống. Thật ra, bà Nga cũng là người nghiêm khắc trong dạy dỗ con cái, nhất là đối với cậu con trai cả. Từ khi học lớp một, lớp hai, cậu con trai cả của ông bà đã hiếu động, không chăm học, lại hay đánh lộn với bạn bè. Tuần nào trong sổ liên lạc với gia đình, cô giáo chủ nhiệm phê phần khuyết điểm nhiều hơn phần ưu điểm. Mấy lần, cậu đòi bỏ học, bà Nga cũng phải tìm mọi cách cho cậu trở lại lớp. Năm tháng trôi qua, cậu cả cũng học xong phổ thông trung học. Rồi bà định hướng cho cậu đi làm. Bà là người thở phào nhẹ nhõm phần nào khi dựng vợ cho cậu cả. Bà Nga cũng lần lượt đón hai đứa cháu nội chào đời, cũng như chăm chúng từ khi lọt lòng, đến giờ cả hai đứa con của cậu con trai cả đều gần học xong trung học phổ thông.
Cậu con trai cả của ông bà nghịch là vậy, nhưng được cái chưa bao giờ thất lễ với bố mẹ. Ngày còn nhỏ hoặc chưa lấy vợ có chuyện gì không dám nói với bố, cậu ta cũng quẩn quanh bên bà một hồi: “Mẹ ơi, mẹ nói với bố giúp con… con sợ bố mắng…”, “Mẹ ơi, mẹ hộ con…”. Giờ có vợ rồi cậu cũng thế, thi thoảng vẫn “Mẹ ơi, con muốn ăn món… mẹ nấu”. Từ ngày bà Nga về hưu, vợ chồng cậu cả đi đâu cũng không quên mua quà cho bà. Món quà mua giá trị không lớn nhưng làm cho bà vui thực sự, vui vì đứa con bà chịu đựng bao đắng cay, tủi nhục để nuôi dạy, giờ nó cũng biết hiếu kính với bà. Cả một đời tuổi trẻ đã đi qua, cho đến giờ mái tóc bà Nga đã bạc trắng. Tuần nào, bà cũng mong ngày chủ nhật, bởi chỉ có ngày nghỉ đó, cả nhà bà mới đông đủ và đầy ắp tiếng cười. Bà mãn nguyện lắm, nhìn hai đứa cháu nội càng lớn càng giống chồng bà từ hình dáng tới ý chí, nghị lực trong học tập và cả ước mơ của chúng nữa; giống cả cái tính gọn, sạch như ông nội nó. Hình như chúng cũng thương bà, cứ ngày nghỉ cả hai cháu nội cũng luôn chân, luôn tay dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, chẳng để bà phải động tay. Cô con dâu cũng ít nói giống như bà nhưng lễ phép, chu đáo, khéo tay. Nếu ai mới tiếp xúc với hai mẹ con bà tưởng hai mẹ con ruột chứ không ai bảo đó là mẹ chồng nàng dâu.
Dù mới về khu phố sinh sống được hơn chục năm, nhưng chuyện cậu con trai cả của ông bà cũng chẳng giấu được ai. Ai cũng biết, cậu con trai cả của bà Nga là con riêng của chồng. Mẹ cậu đã bỏ lại cậu cho ông nuôi khi cậu mới bốn tuổi, theo một gã chủ thầu xây dựng. Nghe nói lúc đó, chồng bà nghèo lắm, lại đi biền biệt, sau phải ly hôn vắng mặt. Sau cái trận mưa gió như quất vào mặt ấy, lúc đầu bà chỉ quý mến ông, là bạn với ông, dần thấy ông là người chất phác, thật thà, giàu nghị lực, có chí tiến thủ, bà đã yêu và lấy ông. Ngoài đứng trên bục giảng, bà đã dành cả tâm huyết nuôi dạy con riêng của ông và con chung của ông bà trưởng thành với bao sóng gió, bao lời đắng cay. Bù lại, ông cũng yêu bà, các con của ông bà rất quý trọng bà. Cô con gái của ông bà cũng trưởng thành, là luật sư ở đâu mãi tận Hà Nội. Vợ chồng cậu con trai cả tuy không công chức gì, nhưng làm ăn chân chính cũng thuộc vào dạng khấm khá ở thành phố, hiếu lễ vẹn toàn với ông bà và gia đình.
Hình như tấm lòng đức độ, nhân hậu của bà Nga cũng thấu tận trời xanh, ông trời cũng như phù hộ cho bà. Giờ đây, bà Nga đã gần tám mươi tuổi mà vẫn khỏe, đôi mắt vẫn sáng, vẫn minh mẫn lắm. Bà Nga chỉ mong sao mình được khỏe để còn được dựng vợ, gả chồng cho cháu nội, cháu ngoại; được chăm lo cho con cháu của bà. Với mọi người, nhất là trong lòng cậu con trai cả của ông bà, thi thoảng mọi người vẫn nhắc về chuyện gia đình bà Nga. Đúng thật, bây giờ “bánh đúc có xương”.
Truyện ngắn của Tăng Văn Tĩnh
Liên kết website
Ý kiến ()