Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 29/03/2024 03:25 (GMT +7)
Văn tế vong hồn phu mỏ
Thứ 4, 17/08/2016 | 09:15:03 [GMT +7] A A
Than ôi!
Sống ở dương gian, gánh mưu sinh thêm nặng kiếp phong trần.
Thác về âm phủ, hồn u khuất khó tìm đường giải thoát...
Nhớ linh xưa
Phu mộ danh xưng
Tụ quần miền mỏ
Vẫn kiếp cu li
Mạt đời nô lệ
"Trai anh hùng phải bán sức trai
Gái đức hạnh héo tản phận gái"
Bản thổ: không Thái Bình cũng Nam Định, Hà Nam
Gốc quê: chẳng Kiến An thì Hưng Yên, Thanh Nghệ
Qua nhiều hoàn cảnh đẩy đưa: cấy mướn, cày thuê khổ lòng ròng rã, thân chẳng nên thân
Với bao cơ sự rủi run: hầu liềng, ở đợ nhục dạ dằng dai, phận không ra phận.
Gặp năm hạn hán mất mùa: đói rách tả tơi, chẳng hớp cháo kê, không manh áo đụp, buộc bụng bỏ làng, bị gậy xin ăn.
Nhỡ khi lụt lội vỡ đê: nhà trôi đất mất, không chốn nương thân, chẳng người chia đỡ, cầm lòng xa xứ, nón tơi khất thực!
Ngẫm cho kĩ, dẫu rằng khôn, bần bách ấy, cơ sự kia cũng không thoát được, trách gì chẳng lận đận long đong
Suy đến cùng, hoàn cảnh này, bể dâu nọ chẳng dễ vượt qua, chê gì không lang thanh lưu lạc.
Lúc hồ đồ, tưởng nơi tiền rừng bạc bể là chốn dễ ăn.
Khi nhẹ dạ, ngỡ miền đất rộng than nhiều hẳn nơi tốt ở.
Bỏ quán bỏ quê, dắt dìu già bị gậy dẫn đưa.
Bán nhà bán đất, bồng bế trẻ áo khăn tìm đến.
Hỡi ôi!
Đất mỏ bày trước mặt
Người ngợm hiện sau lưng:
Nhấp nhô đồi núi, nước độc rừng thiêng, trăn rắn ngó nghiêng, hổ báo gầm ghè, tá hỏa thất kinh.
Cao thấp trắng đen, bụng phình mặt đỏ, Tây Tàu sậm sộ, Cai Kí thị oai, hãi hùng khiếp đảm.
Không chốn ở, bẻ lá đốn cây, cắm lán dựng lều, lấy chỗ che thân, dạ những hoang mang.
Chẳng nơi ăn, thuê niêu thuê trọ, nhờ bếp cậy người làm nơi tá túc, lòng sao ngao ngán!
Lúc xếp lốt lĩnh gạo, khi chầu chực xin thẻ mai làm, chen lấn tựa lũ xin ăn.
Sớm "tranh cuốc tranh xe", tối giành nấu nướng ăn, xô đẩy giống đàn kẻ cướp.
Để có việc làm, vét túi chạy tiền, lót dày thầy kí thầy cai.
Khi lĩnh tiền công, bớt đầu bớt đuôi, lột kĩ thằng đội thằng sếp.
Phận đàn bà, lúc ở lán, lúc trong khe, Tây trắng Tây đen, dễ dở trò chó dê, xúm vào hãm hiếp đớn đau
Thân con gái sớm gánh nước, chiều đội than, thằng kí thằng cai, hay tìm thói chim muông, ép buộc chòng ghẹo tồi tệ!
Giữ được thân thì mất cơm áo, đói rách theo bên.
Đánh mất mình có được việc làm, ê chề sập đến.
Đàn ông khổ nỗi đàn ông: thân phu lò hạ đẳng, đâu nữa dự danh?
Đàn bà nhục sự đàn bà: kiếp cu li mạt hạng, sao đây phẩm hạnh?
Lúc ở quê, chàng đánh giậm, thiếp mò cua, nắm rau tạp tàng, chiều chiều chồng vợ hí ha hí húp.
Khi đến mỏ, chồng cuốc núi, vợ đẩy goòng, ca kíp lôi thôi, khuya khoắt đấy đây phấp phỏng phấp pha.
"Cái chách chằng dây, cái vấu chằng dây", đói thắt ruột đẩy xe nặng cho chủ nuôi đầm.
Chiếc mai long cán, chiếc xẻng lưỡi cùn, đau còng lưng đổ đầy goòng để cai chăn đĩ.
Mệt nhọc thưa tay làm: ba toong Tây giáng, lòng căm.
Rời rã chậm chân đi: cặc bò cai phang, dạ phẫn.
Cực chẳng đã: gạo mục, cá khô như thể tù đày dằng dặc.
Khổ mấy nỗi: tiền không, sức kiệt, rõ ra nô lệ lê thê.
Què cẳng, cụt tay, vứt thí mấy đồng, may sống được xung đội quân thất nghiệp buồn đau.
Ốm đau, bệnh hoạn, tống khứ nhà thương, sẩy có chết quẳng vứt bãi tha ma thương thảm.
Vụng Đầm Ma: kẻ chết đói, chết bệnh, chết dịch, chết đánh, chết đập... thấy thây phơi giữa trời, xác chồng lên xác, ai oán quạ kêu...
Núi mắm Tôm: người sập hầm, sập hố, sập moong, sập giếng, sập tầng, sập vực, sập núi... thân đầy đáy vực, người chất lên người, thảm thương cú rúc!...
Cả vùng Đông Bắc: nào phu cũ, phu mới, nào phu gần, phu xa... đâu ít oan khiên
Gần suốt trăm năm: nào phận trẻ, phận già, nào phận gái, phận trai... đã nhiều thân thiệt.
Khi sống không ra người, thân xác tàn tụy, chốn chốn dương gian, cơ cực trăm đường.
Lúc chết thành ma, cốt nhục xương vùi, tầng tầng địa phủ, tối tăm vạn nẻo.
Thương ôi!
Những tháng này năm nọ: những ai về được quán, được quê, mái tranh vách đất, sum vầy ông bà, cha mẹ, cháu con, sống dưỡng chết thờ, vui sự đời, dẫu xuống suối vàng cũng thung dung thanh thản.
Trong ngày ấy thưở xưa: bao hồn thành ma xó, ma trơi, đất khách quê người, xin khấn khói nhang, áo giấy cháo hoa, sinh phúc tử lành, yên cõi tối, dù lìa trần thế còn uẩn ức u linh.
Con dân thời nước mất, đi ở làm thuê, mang nỗi cô đơn, thân chẳng ra thân, vất vưởng đắng cay.
Đất mẹ thuở nhượng quyền, phu lò bán mạng, gánh điều nhục kép, quê chẳng đâu quê, ngẩn ngơ chua xót.
Song: Trời có mắt, soi thấu nhân gian
Đất có thần, sáng thông bốn cõi
Nay Đất Nước thái bình, bốn biển năm châu, người người trở về quê hương bản quán, mừng lòng.
Giờ Vùng Mỏ khang trang, tứ xứ mười phương, hồn hồn hướng nơi núi cũ lò xưa yên dạ.
Rằng dẫu kiếp phu phen cũng từng có công khai mỏ, mở tầng, đất hoang vu đã thành trù phú, phong lưu, con cháu thừa ân
Hoặc dù phận cu li đã từng góp sức xây thành phố, dựng phường, vùng mỏ nghèo khó trở nên sầm uất, đông vui, hậu sinh thụ hưởng!
Hỡi ôi!
Đã ngót trăm năm vạn vạn con người thân đọa phận đày, dập vùi khốn khổ thương hỡi là thương.
Trải dài miền mỏ, ngàn ngàn sinh linh vía lạc hồn siêu chìm đắm bi ai xót ơi là xót!
Đôi câu gan ruột dâng nén tâm nhang cầu những linh xưa kiếp kiếp an bình
Mấy lời thống thiết, tỏ lòng thành kính mong chư hồn cũ nơi nơi siêu thoát!
Thương ôi. Cung thỉnh.
Lê Văn Lạo (Đông Triều)
* Các câu, các ý trích rút từ "Ca dao vùng mỏ"
** Các địa danh ở Hòn Gai và các sự kiện "Ca dao vùng mỏ" đề cập.
Liên kết website
Ý kiến ()