Tất cả chuyên mục
Thứ Bảy, 20/04/2024 23:36 (GMT +7)
Đàn tính của người Tày Bình Liêu
Thứ 7, 23/07/2016 | 13:01:27 [GMT +7] A A
Người Tày ở Quảng Ninh có dân số đứng thứ 3 sau người Kinh và người Dao, chiếm 20,8% dân số toàn tỉnh. Trong đó, riêng đồng bào Tày ở Bình Liêu chiếm 44% (13.712 người) dân số dân tộc Tày trong toàn tỉnh. Tộc người Tày ở Quảng Ninh có đời sống tinh thần phong phú, đa dạng thông qua các phong tục, tập quán như: Lễ cưới, lễ hội xuống đồng (lồng tồng), lễ chúc thọ, lễ cầu mùa, lễ về nhà mới… Phong phú hơn cả là các thể loại dân ca, trong đó có thể loại như: Lượn, phongslư, lượn slương, lượn then, lượn tràng ới… là lối hát giao duyên được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng. Người ta thường lượn trong hội lồng tồng, trong đám cưới, mừng nhà mới hay khi có khách đến làng.
Trong sinh hoạt hay lao động sản xuất, đàn tính thường xuất hiện cùng với các làn điệu then của đồng bào Tày Bình Liêu. |
Trong kho tàng văn nghệ ấy, đàn tính là nhạc cụ tiêu biểu, gắn liền với đời sống tinh thần của các tộc người nhóm ngôn ngữ Tày - Thái, đặc biệt là người Tày. Đàn tính có từ bao giờ không ai còn nhớ, có truyền thuyết về đàn tính kể rằng: Ngày xưa có một chàng trai khoẻ mạnh tên là Xiên Cần, Xiên Cần có tài đàn hát. Chàng đã lớn tuổi nhưng nhà nghèo và ăn quá khoẻ nên chưa lấy được vợ. Xiên Cần liền bắc các bậc đá lên hỏi trời (tức mẹ Hoa). Mẹ Hoa liền cho chàng một cây đàn tính có 7 dây, làm từ 7 sợi tóc của một nàng tiên. Chàng đánh đàn, lập tức hiện lên thành quách, thóc lúa đầy đồng và cả một thiếu nữ xinh đẹp. Thế là Xiên Cần có vợ, nhưng tiếng đàn của chàng lại làm mọi người say đắm, bỏ bê việc đồng áng, mẹ Hoa thấy vậy liền xuống trần bứt hết 7 sợi tóc của nàng tiên và thay vào đó là 3 sợi dây tơ tằm có tên gọi dây mẹ (tượng trưng cho đất nước đẹp giàu), dây anh (dây trầm cho sức mạnh giữ nước), dây em (dây bổng chính là tình yêu đôi lứa). Đàn tính còn ba dây từ đó. Khi tìm hiểu để viết bài này, tác giả cũng đã có dịp tham gia Ngày hội VH-TT&DL các dân tộc vùng Đông Bắc tại Cao Bằng, Tuyên Quang. Khi nói chuyện với các nghệ nhân ở đây, tôi nhận thấy có điều khác biệt là người Tày ở tỉnh Quảng Ninh dùng đàn tính 2 dây thay vì 3 dây như các tỉnh khác. Phải chăng 1 dây theo truyền thuyết được trao lại cho người Kinh để tạo ra đàn bầu như ông Nguyễn Quang Vinh, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian tỉnh từng phát biểu tại buổi toạ đàm khoa học bảo tồn và phát huy di sản then dân tộc Tày tỉnh Quảng Ninh vào tháng 4 vừa qua(?).
Theo Nghệ nhân Dân gian Việt Nam Lương Thiêm Phú, Chủ nhiệm CLB hát Then - đàn tính xã Tình Húc, đàn tính thường có chiều dài 117cm, bầu rộng 16cm gồm có các bộ phận: Bầu đàn, cần đàn và dây đàn. Để chế tạo một chiếc đàn, phần quan trọng nhất là phải tìm được bầu đàn, được làm từ quả bầu, quả bầu cần phải tròn đều, vỏ không bị nám hoặc lồi lõm và có độ lớn tương đối. Theo kinh nghiệm người xưa truyền lại, cứ theo hình tròn của quả bầu đủ 3 gang tay là được, khi hái bầu về phải ngâm nước từ 8 đến 10 ngày cho ruột thối đi, rửa sạch rồi lau đi màng đen bám bên ngoài để được màu tươi sáng và phơi khô, sau đó cắt ngang khoảng 1/3 quả bầu tính từ cuống đến giữa quả để tạo mặt phẳng rồi dán gỗ lên trên là được mặt của bầu đàn. Để cây đàn tính âm vang, tròn thì quả bầu phải già. Nếu bầu còn non thì âm thanh sẽ đục. Ngoài ra, kích cỡ bầu vang có thể thay đổi tuỳ theo quả bầu lớn nhỏ, xong đường kính thường từ 15-20cm, để có độ vang âm sắc chuẩn người ta thường chọn quả bầu tròn, dày và đều để bầu vang. Mặt đàn thường bằng mo tre hoặc gỗ cây ngô đồng xẻ mỏng dày khoảng 3mm, xung quanh bầu đàn được khoét nhiều lỗ nhỏ tạo hình hoa thị vừa để trang trí vừa để phát âm (trước kia 2 lỗ hoa thị được khoét ở phía sau bầu đàn). Cũng theo ông Lương Thiêm Phú, để âm thanh thật sự được hay, mặt đàn phải lấy được da con trăn bịt lại, nhưng bây giờ, da trăn hiếm nên có thể dùng mo cau và một loại giấy đặc biệt có độ đàn hồi cao để thay thế.
Dây đàn trước đây thường làm bằng tơ hay sợi cước. Đàn tính của người Tày ở Quảng Ninh có 2 dây, dây giữa có âm trầm, âm thanh thấp hơn dây còn lại. Cần đàn thường làm bằng gỗ dâu, gỗ cây “boóc láp” nhẹ và thẳng. Cần đàn dài khoảng 9 nắm tay của người chơi đàn. Theo kinh nghiệm dân gian, “số đo” cỡ nào thì hợp với cỡ giọng hát của người có số đo ấy. Phần dưới của cần đàn xuyên qua bầu vang còn phần trên cùng là đầu đàn uốn cong hình lưỡi liềm hoặc đầu rồng, đầu phượng. Mặt cần đàn trơn, không có phím mà chỉ có ngựa đàn làm bằng gỗ nhỏ nằm trên mặt đàn để cố định dây và kê không cho dây chạm trực tiếp vào mặt đàn. Theo cách đánh đàn xưa, người diễn không dùng que gảy mà chỉ gảy bằng ngón tay trỏ của tay phải. Ngón cái và giữa giữ cần đàn ở nơi gần sát bầu đàn. Ngón trỏ gảy xuống và hất lên luân phiên khi chơi giai điệu nhanh, còn nếu giai điệu chậm thì ngón trỏ chỉ gảy xuống. Kỹ thuật tay phải gồm có ngón vê, ngón phi và đánh âm nền. Riêng về tay trái gồm có các thế bấm như ngón rung, ngón vuốt, ngón vê, ngón phi, ngón luyến và âm bội...
Làn điệu Then và đàn tính là nét văn hoá đặc trưng của đồng bào dân tộc Tày của huyện Bình Liêu. Những năm qua, với sự vào cuộc tích cực của các cấp, ngành và của nhân dân các dân tộc trong huyện, công tác bảo tồn và phát huy di sản Then đã được ghi nhận, Nghi lễ Then được Bộ VH-TT&DL công nhận danh mục Di sản văn hoá phi vật thể Quốc gia, nhiều nghệ nhân đã được phong tặng danh hiệu vinh dự nhà nước Nghệ nhân Ưu tú, Nghệ nhân Dân gian Việt Nam. Các làn điệu hát then - đàn tính đã được ngành giáo dục quan tâm, đưa vào giảng dạy cho nhiều lớp thanh, thiếu nhi. Tuy nhiên, tri thức dân gian về cách làm đàn tính thì vẫn chưa được quan tâm, hiện chỉ còn 1-2 nghệ nhân là còn làm được. Thiết nghĩ, thời gian tới song song với việc bảo tồn nghệ thuật hát then cần phải có những giải pháp bảo tồn, phát huy cách làm đàn tính.
Nguyễn Trung Hà (CTV)[links()]
Liên kết website
Ý kiến ()