Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 19/04/2024 13:00 (GMT +7)
Đến chùa Quỳnh Lâm xem sưu tập cổ vật của Đại đức Thích Đạo Quang
Thứ 7, 14/10/2006 | 15:51:37 [GMT +7] A A
Ở Quảng Ninh, cho tới giờ, người có sưu tập cổ vật nhiều nhất có lẽ thuộc về Đại đức Thích Đạo Quang, hiện trụ trì ở chùa Quỳnh Lâm, xã Tràng An (Đông Triều)...
Nói đến chơi đồ cổ, không ai không biết cố học giả Vương Hồng Sển (ở TP Hồ Chí Minh) cả đời đam mê, sưu tầm cổ vật. Trước khi mất, ông đã hiến toàn bộ di sản đồ sộ quý giá đó cho Bảo tàng lịch sử TP Hồ Chí Minh. Căn nhà ông ở nay đã trở thành một bảo tàng lưu niệm.
Đó là tầm quốc gia, còn ở Quảng Ninh, cho tới giờ, người có sưu tập cổ vật nhiều nhất có lẽ thuộc về Đại đức Thích Đạo Quang, hiện trụ trì ở chùa Quỳnh Lâm, xã Tràng An (Đông Triều)...
Một trong số các tủ đựng cổ vật của Đại đức Thích Quang Đạo
Đại đức Thích Đạo Quang kể: Tôi đam mê tượng, cổ vật từ bé. Thuở nhỏ ở quê nhà (Tiền Hải - Thái Bình), tôi vẫn thường trốn bố ra một góc để tỉ mẩn nặn tượng. Lớn lên đi làm tiểu ở chùa Khoan Tế, xã Đa Tốn, Gia Lâm (Hà Nội). Một lần sư thầy trụ trì ở chùa gọi tôi vào phòng và đưa cho tôi một bộ chén vị thủy, gồm 1 khay và 6 chén nhỏ, bảo: Ta thấy con đam mê cổ vật nên tin tưởng giao lại cho con những thứ này. Hơn 30 năm qua, những thứ thầy giao lại, tôi vẫn giữ nguyên vẹn...
Rồi Đại đức Quang dẫn tôi vào trong trai phòng; tại đó cổ vật được bày kín trong 4 tủ kính. Trong đó, chiếm số lượng nhiều nhất là đồ gốm sứ có nguồn gốc của Việt Nam và Trung Quốc, niên đại từ thế kỷ 1-2 đến thế kỷ 18-19. Loại hình cũng rất phong phú, như: nậm rượu, ấm, điếu bát, âu, đĩa, bát, hũ... với cả men ngọc thời Lý, men trắng ngà tô son nâu thời Trần, men trắng ngà vẽ lam đặc trưng thời Lê. Một số chén bát có ghi dưới đế hai chữ “nội phủ” là loại chỉ dùng trong cung vua, phủ chúa. Có chiếc khá to như chiếc bát to, in 100 chữ “Phúc” (theo văn tự Hán) có niên đại thời Minh (Trung Quốc - thế kỷ 15-16), đường kính tới hơn 20cm, cao khoảng hơn 15cm; có cái vẽ hình rồng cách điệu như chiếc đĩa “độc long”, lại có chiếc đĩa vẽ hình 5 con vịt, con đang bay, con đang lội...
Qua tiếp xúc, có thể thấy Đại đức Thích Đạo Quang là người say mê và khá am hiểu về những bí quyết của giới sưu tầm cổ vật về niên đại, đặc trưng, loại hình, hoa văn từng triều đại, quốc gia. Lấy ra bộ chén vị thủy đưa tôi xem, Đại đức phân tích: Bộ chén vị thủy do người Tàu sản xuất có ba loại: loại dùng uống mùa hè thì thành mỏng, loại uống mùa thu thì vừa vừa, nhưng loại uống mùa đông thì dày hơn cả vì để giữ nhiệt. Mỗi cái chén vị thủy lại chép một tích riêng. Chẳng hạn cái này - Đại đức cầm lên một cái - Thì vẽ minh họa và chép mấy chữ Hán: Tùng Hạ vấn đồng tử. Ngôn sư di cúc hứ (tức ông Tùng Hạ hỏi đồng tử: Thầy mày đi đâu. Đồng tử chỉ lên núi, trả lời: Thầy con lên núi ngồi thiền). Hay như chiếc chén này chép: Chiêm vân đồng miện hạc. Chỉ nhật công đàm thiền (tức có hai thầy trò vấn nhau. Trò bảo: Mẹ con mới mất con buồn quá. Thầy mới bảo: Cuộc đời là huyễn hoặc ví như con chim đậu rồi bay, đám mây hợp rồi tan mà thôi)... Trong bộ chén vị thủy không thể thiếu một cái vẽ tích ông Lã Vọng ngồi câu cá bên sông Vị Thủy, vì thế mà trở thành tên gọi chung cho cả bộ chén.
Biết Đại đức Quang hay sưu tầm, gìn giữ cổ vật, nhiều người dân quanh vùng khi phát hiện cổ vật đã mang đến tặng; như ông già ở chùa Phúc Đa (xã Tân Việt - Đông Triều) tặng cái nậm rượu bằng sành khi đào được trong vườn; ông Sót (ở Hồng Phong) tặng một cái điếu bát niên đại thế kỷ 18, do Trung Quốc sản xuất. Đặc biệt, trong số cổ vật của Đại đức Thích Đạo Quang có một số là bảo vật quý của chùa Quỳnh Lâm, như đôi bình men trắng ngà tô son nâu, có quai hình rồng, cao khoảng 40cm còn khá nguyên vẹn có niên đại thời Trần (thế kỷ 13-14). Đây là bình dùng để đựng xá lị (hài cốt bậc chân tu sau khi hoả thiêu), được tìm thấy trong quá trình đào móng xây chùa những năm trước; 2 đầu rồng bằng đất nung và ngói men ngọc màu vàng dùng để lợp thượng điện, ngói men xanh để lợp nhà tổ là những dấu tích xưa của chùa Quỳnh, được tìm thấy trong quá trình đào mương thoát nước quanh chùa. Ngoài ra còn có những cổ vật có niên đại thời Trần tìm thấy ở các di tích quanh vùng như am Ngọa Vân, đền An Sinh. Trong đó đáng kể nhất là chiếc ấn đồng có khắc chữ “Hưng Đạo Đại Vương”(Báo Quảng Ninh số xuân năm 2000 đã giới thiệu), do một người đàn bà ở xã An Sinh khi cuốc ruộng phát hiện, giao lại cho Đại đức.
Cho tới thời điểm này, tổng số cổ vật trong bộ sưu tập của Đại đức Thích Đạo Quang ước có tới con số hàng trăm. Mỗi cổ vật đều được Đại đức nâng niu, giữ gìn cẩn thận, cái sứt miệng thì thuê thợ bọc đồng, cái vỡ như trống đồng thì thuê đúc mới phiên bản. Trả lời câu hỏi của chúng tôi, Đại đức Thích Đạo Quang cho biết: Có thể sau này tôi sẽ như thầy tôi, bằng cách viết di chúc hiến lại số cổ vật này cho một vị sư tăng ở chùa Hương để có dịp giới thiệu cho khách tham quan. Tuy nhiên, tất cả những cổ vật nào của chùa Quỳnh và liên quan tới các di tích trong vùng thì phải giữ lại.
Cho tới nay, sưu tập cổ vật của Đại đức Thích Đạo Quang vẫn rất ít người được chiêm ngưỡng. Nên chăng vào dịp kỷ niệm ngày Di sản văn hóa Việt Nam tới đây (23-11), ngành Văn hóa - Thông tin đề xuất với Đại đức, tổ chức một triển lãm, giới thiệu sưu tập cổ vật trên tại TP Hạ Long cho công chúng biết thì hay biết mấy. Với mục đích bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, chắc hẳn Đại đức chẳng nỡ chối từ...
Liên kết website
Ý kiến ()