Tất cả chuyên mục
Thứ Tư, 24/04/2024 23:23 (GMT +7)
Di cảo của Đệ nhị tổ Trúc Lâm Pháp Loa
Thứ 6, 05/03/2021 | 09:14:45 [GMT +7] A A
Trong cuộc đời tu hành của mình, Thiền sư Pháp Loa đã viết rất nhiều bài thơ và kệ tụng. Dù tất cả những gì ngài viết trong cuốn "Thạch thất mị ngữ niêm tụng" hiện đã thất lạc nhưng chỉ với những gì còn sót lại đến ngày nay cũng đủ để chứng minh rằng, không chỉ là một nhà tu hành, Pháp Loa còn là một tác giả tiêu biểu của văn học Phật giáo thời Lý - Trần.
Tượng Thiền sư Pháp Loa. |
Thiền sư Pháp Loa (1284-1330), thế danh là Đồng Kiên Cương, là môn đệ của Phật hoàng Trần Nhân Tông và là vị tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm. Thực tế, về thơ, thiền sư Pháp Loa chỉ còn lại 3 bài thơ: Một bài ca tụng Tuệ Trung Thượng sĩ, 1 bài thi tịch chép ở sách “Tam tổ thực lục” và 1 bài “Lưu luyến cảnh núi xanh” chép ở sách “Toàn Việt thi lục”.
Tuy nhiên, các tác phẩm của Pháp Loa được ghi nhận, điểm tên trong sách “Tam tổ thực lục” gồm có: “Thiền đạo yếu học”, “Kim cương đạo tràng đà la ni kinh khoa chú”, “Tán Pháp hoa kinh khoa sớ”, “Bát nhã tâm kinh khoa”, “Nhân vương hộ quốc nghi quỹ”. Ngài còn ấn hành “Đại tạng kinh” vào khoảng năm 1329 và để lại nhiều tác phẩm khác về thiền học và luận thuyết về các kinh: “Nhập lăng già”, “Diệu pháp liên hoa”, “Bát nhã ba la mật đa”.
Những tác phẩm nói trên hầu hết đã thất truyền. Tuy nhiên, căn cứ vào tên sách có thể thấy được ngài viết nhiều thể văn khác nhau như lục chú, sớ, luận thuyết, tản văn, tạp văn, vấn đáp và thơ ca. Riêng về thơ ca của Thiền sư Pháp Loa có 3 thể văn chính là thi kệ thi tán như những bài: “Nhập tục luyến thanh sơn”, “Tán Tuệ Trung thượng sĩ”, “Huyền ngôn”, “Thị tịch”; ngữ lục như “Trúc Lâm đại tôn giả thượng tọa thính sư thị chúng”, vấn đáp thiền học cùng Huyền Quang và tản văn triết học có “Khuyến xuất gia tiến đạo ngôn”. Tản văn triết học khuyên người xuất gia tu tiến việc đạo, hướng dẫn đệ tử tu tập để thành người thấu suốt lòng Phật tổ, biết lẽ sống chết. Điều đó đòi hỏi người tu phải đi đến đích chứ không phải cư trú ở trên đường đi. Tác phẩm “Ngữ lục thiền tông” nói về việc Trúc Lâm đại sĩ lên tòa nghe giảng pháp. Tác phẩm chủ yếu là những vấn đáp giữa sư và tăng nhân về thiền học mà cảm hứng chủ yếu là bày tỏ nhận thức về tính không.
Hội thảo khoa học “Thiền sư Pháp Loa: Sự nghiệp tu hành, thiền học và dấu ấn lịch sử”, được tổ chức tại TX Đông Triều vào cuối năm 2020. |
Trong số những di cảo của Thiền sư Pháp Loa, đáng chú ý là thể loại thi kệ. Thi kệ là văn phổ biến và ưa thích của các thiền sư thời Lý – Trần, là văn thể thành công nhất có đóng góp quan trọng nhất vào lịch sử văn học. Thiền sư Pháp Loa chỉ để lại 4 bài thi kệ, không mang tính liên tục. Bài “Nhập tục luyến thanh sơn” như sau: "Sơ cấu cùng thu thủy/ Sàm nham lạc chiếu trung/ Ngang đầu khan bất tận/ Lai lộ hựu trùng trùng" (Tạm dịch: Rặng núi gầy in bóng xuống dòng nước mùa thu/ Đỉnh núi chót vót dưới ánh mặt trời/ Ngẩng đầu lên nhìn thấy không cùng/ Con đường đi tới lại nhiều ngã rẽ).
Trong bài kệ nói về huyền ngôn của Phật, ngài đòi hỏi người tu hành phải là thức giả, phải có trí tuệ thì mới hiểu hết được lẽ huyền vi trong lời kinh: "Ma cường pháp nhược đạo hà cô/ Phật tổ ân cần tác viễn đồ/ Duy hữu huyền ngôn vi quỹ phạm/ Thùy năng thức giả giải hành vô" (Tạm dịch: Ma quỷ mạnh, phép Phật yếu tại sao đạo chẳng cô độc/ Phật tổ ân cần chỉ cho tiền đồ trước mặt/ Chỉ có lẽ huyền vi trong lời kinh Phật/ Ai là người thức giả có thể giải được hành vô). Đây là bài kệ quan trọng mang tính dự báo cao khi mà có tình trạng vô minh trong một bộ phận tăng chúng. Theo Thiền sư Pháp Loa thì xây chùa, đúc tượng khuyến khích dân đi theo Phật là quan trọng nhưng quan trọng hơn là tu sĩ và tăng chúng phải ngộ đạo, phải biết "xây chùa, đúc tượng" trong chính tâm giác ngộ của chính mình.
Viên Thông Bảo Tháp, tương truyền là nơi các đệ tử táng xá lị của Thiền sư Pháp Loa. |
Bài ca tụng “Tuệ Trung thượng sĩ” là tác phẩm bày tỏ sự ngưỡng mộ của Thiền sư Pháp Loa với sư Tuệ Trung, một người thấu triệt mọi lẽ đời, vô chấp đến độ kiên cường, vững như gang đúc và thép ròng giữa đời thực: "Thuần cương đả tựu/ Sinh thiết trú thành/ Xích thiên thốn địa/ Nguyệt bạch thanh phong" (Tạm dịch: Thép ròng rèn được/ Gang sống đúc nên/ Thước trời gang đất/ Trăng sáng gió trong).
Năm Đại Khánh thứ 4 (1317), ngài bệnh nặng đã ban kệ cho đệ tử viết rằng: “Vạn duyên tiệt đoạn nhất thân nhàn/ Tứ thập dư niên mộng huyễn gian/ Trân trọng chư nhân hưu vấn tá/ Na biên phong nguyệt cánh mại khoan" (Dịch nghĩa: Muôn duyên cắt đứt, một tấm thân nhàn/ Hơn bốn mươi năm trong cơn mộng huyễn/ Trân trọng, mọi người đừng gạn hỏi nữa/ Bên kia trăng gió càng thênh thang).
Bài kệ hàm chứa triết lý của Phật giáo Thiền tông quan niệm thế giới là vô thường, thế giới biến đổi thường hằng và trong sự biến hóa vô thường ấy chữ duyên là hệ trọng. Thế giới là do nhân duyên kết hợp mà thành. Khi nhân duyên không còn thì sự vật sẽ chuyển sang một trạng thái khác. Khi nắm bắt được tư tưởng này thì tâm sẽ không còn vọng động trước sinh tử hữu vô còn mất. Bài kệ thể hiện tư tưởng sâu sắc và tài năng văn chương của Thiền sư Pháp Loa gửi gắm trong một hình thức thơ thất ngôn điêu luyện.
Bên cạnh đó, còn một bài kệ ngài viết: “Thu lai bất báo nhạn lai quy/ Lãnh tiếu nhân gian tạm phát bi/ Vị báo môn nhân hưu luyến trước/ Cổ sư kỉ độ tác kim sư” (Tạm dịch: Mùa thu về không báo tin cho chim nhạn cùng về/ Đáng cười rằng người đời cứ nảy sinh buồn thương trước cái chết/ Khuyên các môn đồ của ta chớ có vì ta ra đi mà luyến tiếc/ Thầy xưa đã bao nhiêu lần hóa thân làm thầy nay).
Về cuộc đời và hành trạng của ngài, PGS.TS Nguyễn Kim Sơn, Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, Viện trưởng Viện Trần Nhân Tông, nhận định: Pháp Loa là một nhà hoạt động chính trị và một nhà văn hóa, một tác gia văn học có nhiều đóng góp. Cư sĩ Đào Nguyên, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, nhận định: Thiền sư Pháp Loa là một gương mặt thi ca tiêu biểu của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ 14 và của văn học Phật giáo Việt Nam thời thịnh Trần.
Phạm Học
Liên kết website
Ý kiến ()