Tất cả chuyên mục
Thứ Tư, 24/04/2024 23:11 (GMT +7)
Phương ngôn, thành ngữ, tục ngữ Quảng Ninh
Chủ nhật, 30/06/2019 | 07:26:00 [GMT +7] A A
Phương ngôn, tục ngữ, thành ngữ ở Quảng Ninh có sự đa dạng, phong phú, đúc rút kinh nghiệm sống, đối nhân xử thế của người xưa.
"Bạch Đằng giang là sông cửa ải...". |
Trong kho tàng phong phú này, vùng biển có sự xuất hiện với mật độ cao hơn miền núi. Gắn bó chặt chẽ với nghề biển, ngư dân quan tâm nhiều đến gió, nhất là cữ gió 3/3 Âm lịch: “Tiền tam nhật/ Hậu tam nhật”. Nghĩa là trước và sau 3/3, 3 ngày. Hay như cữ gió 23/10: “Ông không tha/ Bà không tha/ Nhớ 23/10”. Người đi biển đúc kết kinh nghiệm đi biển lúc trời yên, sóng êm: “Bấc lặng về hôm, nồm lặng về sớm”; “Một ngày nồm ra, ba ngày bấc xuống”.
Hai câu sau có dạng thức của ca dao nhưng lại truyền đạt kinh nghiệm dân gian kiểu tục ngữ: “Con ơi nhớ lấy lời cha/ Gió nồm, nước rặc (nước thuỷ triều chảy mạnh xuống) chớ qua sông Rừng”. Có một dị bản khác tương tự: “Con ơi nhớ lấy lời cha/ Cường Nam, lộng Bắc chớ qua sông Rừng”. Sông Rừng (tên dân gian của sông Bạch Đằng) chảy theo hướng Bắc – Nam, lúc thủy triều lên mạnh dâng sóng cao, lại gặp gió mùa Đông Bắc thì sóng gió trái triều. Nếu gối được sóng thì lại trái chiều gió, tay lái không vững thì dễ lật thuyền, rất nguy hiểm.
Tuy nhiên, sóng gió ở trên sông vẫn chưa nguy hiểm bằng bão biển. Đây là kinh nghiệm nhận diện dấu hiệu có bão: “Trông lên lá lật trắng phau/ Liệu đường chèo chống mau mau bão về”. Hoặc một dị bản khác: “Yên lòng bọt biển trắng phau/ Hễ trở màu xám bão đâu rập rình". Khi nghe tiếng sấm lại là khi an toàn: “Rập rình tưởng bão sắp vào/ Tai nghe sấm động thở phào bão đi”. Không phải cứ có bão là sẽ ra về trắng tay, ngư dân Quảng Ninh đã đúc kết: “Đầu động, cuối yên”. Khi bão chưa đến, biển hơi động, cá xô vào gần bờ phải tranh thủ bắt. Khi bão tan, biển yên rồi mới được đi đánh cá.
Còn đây là kinh nghiệm cụ thể để tránh bão khi đi gần hòn Đũa: “Kín Đũa sống/ Trống Đũa chết”. Nghĩa là, nếu thấy giông bão khi ở gần hòn Đũa thì nhanh chóng cho thuyền lách vào khe núi sao cho không còn nhìn thấy hòn Đũa nữa; nếu cho thuyền đi ra chỗ trống nhìn rõ hòn Đũa thì chắc chắn sẽ lật thuyền. Nếu cố tình đi thì sẵn sàng có những lời cảnh báo bằng giọng bông lơn, chơi chữ: “Mồng Mười tháng Ba/ Giỗ cha thằng ngoẹo/ Muốn ăn cá nghéo/ Thì chạy ra khơi”. Mồng Mười tháng Ba tưởng trời quang nhưng còn có một đợt gió mạnh trong năm, đi ra khơi thì rất nguy nghiểm, không khéo lại... ngoẻo.
Cùng với gió, ngư dân rất quan tâm đến con nước: “Tháng chín nước vịnh chân cơ/ Mẹ con nhà siệng bơ vơ đầu gềnh”. Nghĩa là, nếu tháng chín mà trong ngày nước không lên xuống thì người làm nghề cá sẽ rất khó khăn.
Ngư dân mách nhau đặc điểm mỗi loài cá: “Nước chảy xuôi, cá buôi bơi ngược/ Nước chảy ngược, cá vược bơi ngang”. Quan trọng nữa là mưa: “Tháng bảy, mưa gãy cành trám”; “Mùng chín tháng chín không mưa/ Mẹ con mang bán cày bừa mà ăn”; “Bao giờ sấm chớp chùa Lôi/ Con ơi trở dậy mang nồi ra sân” .v.v. Và kinh nghiệm đánh bắt tùy vào thời điểm: “Tôm chạng vạng/ Cá rạng đông”; “Trời trong trăng tỏ/ Nước đục ngầu ngầu/ Cha con bảo nhau/ Chèo mau cập bến/ Cá bể mùa đông/ Cá sông mùa hè”. Hay như: “Ráng vàng thì gió, ráng đỏ thì mưa/ Tháng Giêng tố dài, tháng hai tố ngắn/ Tháng bảy nước nhảy lên bờ/ Tháng Giêng, tháng Hai kéo chài không kịp”.
Bắt được cá rồi thì kinh nghiệm ẩm thực các cụ cũng rất coi trọng: “Thứ nhất phải là cá song/Thứ nhì cá vược nếu không cá ngừ/ Dẫu rằng có ốm lừ khừ/ Ăn bát cháo cá từ từ khoẻ ra”. Một con cá cũng phải biết lựa chọn những phần ngon nhất: “Bám ruộng đầu cầu/ Ăn đầu cá đối”. Còn cá rô phải biết chọn ăn vào dịp tháng tám cá béo nhất: “Cá rô tháng tám chẳng dám bảo ai/ Cá rô tháng hai bảo ai thì bảo”. Chớ ăn cá rô, cá mòi dịp đầu năm: “Tháng ba, quạ tha cá mòi”.
Địa danh Quảng Ninh được đưa vào rất nhiều: “Trà Cổ, tổ Đồ Sơn”; “Gái Hòn, trai Cẩm”; “Đèo Voi, Dốc Sắt, Tây Nhật đều kinh”; “Đồi núi Cối, dốc Đèo Bụt, ngõ cụt Giếng Đồn”. Nếu nói đến Vùng mỏ, có rất nhiều địa danh gắn với cuộc đời cơ cực của phu mỏ xưa: “Ruồi vàng bọ chó, gió Vàng Danh”, hoặc “Cha trốn ra Hòn Gay cuốc mỏ/ Anh chạy vào Đất Đỏ làm phu”; “Cọp dữ Mông Dương/ Nước độc Hà Tu”; “Nước Vàng Danh, canh Hải Phòng”.
Nhiều địa danh thể hiện niềm tự hào về quê hương: “Bạch Đằng giang là sông cửa ải/ Tổng Hà Nam là bãi chiến trường”; “Rừng Ba Chẽ, chè Đường Hoa”; “Đông Triều: Ráng Dọc/ Thủy Đường: Ngọc Lai”. Một số nhân vật được nhắc tên giúp ta nhận biết câu thành ngữ đó ra đời vào khoảng thời gian nào: “Giàu như Bá Trại Đồn Sơn”; “Giàu nào bằng Bạch Thái Bưởi”.
Có khi đó là những thức đặc sản, lâm sản, thổ sản được nhắc đến: “Gỗ Vẩy Rồng, thông núi Vẻn”; “Nhất đẹp là gái Hà Lôi/ Vừa treo vừa cưới một nồi khoai lang”; “Ổi chùa Mo, bò Bắc Mã”. Ở Đông Triều tương truyền có loại khoai tiến vua, củ nhỏ nhưng ăn đậm đà, thơm bở, ngọt ngào và ngon, nay không còn giống nhưng trong dân gian vẫn lưu truyền: “Khoai lang Trạo, gạo xứ Bắc”. Hoặc là món ăn dân gian: “Muốn ăn cơm nắm muối vừng/ Thì về Chợ Cột đi rừng với anh”. Hay như: “Muốn tắm mát lên ngọn sông Đào/ Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh”.
Mỗi câu thành ngữ ở Quảng Ninh lại chứa đựng hàm nghĩa văn hóa sâu sắc không dễ hiểu hết ý nghĩa, ví dụ: “Lợn Móng Cái, gái Đầm Hà, gà Tiên Yên”. Có người nói vui với nhau rằng 3 thứ đó đều là “đặc sản”. Tuy nhiên, có thể, con lợn ỉ là vật nuôi truyền thống được tôn trọng đến mức so sánh ngang với người(?).
Những kinh nghiệm dân gian quý báu được cô đúc lại trong những câu văn vần dễ thuộc, dễ nhớ. Có thể đôi chỗ, phương ngôn, tục ngữ, thành ngữ ở Quảng Ninh còn chưa được uyển chuyển nhưng điều đó lại khẳng định tính địa phương độc đáo của văn học dân gian. Đó cũng là niềm tự hào của người dân Quảng Ninh về bề dày văn hóa mà cha ông đã vun đắp. Đáng tiếc là đến nay, chưa có một công trình sưu tầm, nghiên cứu bài bản nào về vấn đề này.
Huỳnh Đăng
[links()]
Liên kết website
Ý kiến ()