Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 29/03/2024 00:18 (GMT +7)
Chuyện tình người quản trang
Chủ nhật, 29/07/2018 | 17:33:02 [GMT +7] A A
Người ta thêu dệt rất nhiều về chuyện tình của ông Ba. Không biết chuyện tình của ông có thật hay không, mà khi nghe xong không thấy ông phản đối, chỉ cười trừ. Có người gọi ông là “Ông Ba quản trang”. Có người gọi ông là “Ông Ba si tình”. Lại có người kể rất ly kỳ câu chuyện về cái tên của ông. Họ bảo sở dĩ ông có cái tên “Ba” là vì ông đã ba lần yêu và cả ba lần đều không được yêu. Thế là ông chán đời, xin đi làm quản trang…
Ngày ngày ông có nhiệm vụ mở và đóng cổng nghĩa trang, quét dọn, lau chùi các bia mộ. Thị xã xây cho ông hai gian nhà nho nhỏ ở ngay cạnh cổng nghĩa trang. Một gian ông kê một chiếc giường cá nhân. Gian kia ông kê một bộ bàn trà, gọi là phòng khách để mỗi khi có người vào thăm viếng còn có chỗ để tiếp.
Công việc của ông thầm lặng, ít tiếp xúc với bên ngoài nên ít người hiểu về ông. Họ chỉ biết rằng xưa kia đã có một thời ông làm mỏ. Sau đi bộ đội, rồi bị thương. Phục viên về, xin ra làm quản trang. 18 năm làm quản trang, ông thuộc tên, nhớ tuổi của từng liệt sĩ.
Hằng ngày, chăm sóc các phần mộ những đồng chí, ông thấy lòng mình thanh thản. Ở nghĩa trang thị xã này, tuy không lớn nhưng các phần mộ ở đây cũng có đủ các thành phần ở mọi địa phương. Hai dãy đầu là phần mộ của các chiến sĩ con em trong thị xã hy sinh ở các chiến trường xa. Hai dãy tiếp là các chiến sĩ thuộc tiểu đoàn phòng không bảo vệ thị xã và nhà máy điện. Kế tiếp sau là các chiến sĩ tự vệ thuộc các cơ quan, xí nghiệp trên địa bàn.
Người ta vẫn thường thấy ông chăm lo chu đáo nhất cho phần mộ của một nữ chiến sĩ tên là Hà. Ngày mồng một, ngày rằm hằng tháng, ông đều mua hoa tươi, mà chỉ một loại hoa mẫu đơn về thắp hương cho cô.
Mỗi buổi chiều, khi mặt trời sắp lặn, gió từ sông Bạch Đằng thổi về đem hơi nước làm dịu đi sự bỏng rát trên các phần mộ, thắp hương cho Hà, ông Ba ngồi tĩnh lại. Mọi ký ức ùa về xao động trong ông…
Ông quê ở Nam Định. Năm 1967, giặc Mỹ trút bom, gia đình ông không ai sống sót. Hôm ấy ông về quê ngoại. Đau đớn, xót thương, ông vật vã mấy ngày liền, khóc không ra tiếng. Sau đó, ông anh họ xin cho ông ra mỏ làm việc. Ông bắt đầu cuộc đời làm mỏ từ đấy. Ông thông minh, lại cần cù chịu khó nên chỉ một năm sau, tay nghề của ông đã khá. Ông được trao búa để vào lò. Từ một người học việc, ông thành thợ bậc hai, bậc ba rồi bậc 4/6 trước thời hạn.
Cùng với thành đạt về tay nghề, ông còn có được tình yêu. Cô y tá trực ca tên là Hà, cũng người Nam Định, yêu mến ông. Hà theo bố ra mỏ sau ông hai năm, học lớp y tá 6 tháng, trực ở trạm cửa lò. Cô hiền lành, chất phác, ít nói, hay cười. Sớm mồ côi mẹ nên đôi mắt Hà lúc nào cũng buồn buồn, sâu thẳm. Ông và Hà thương nhau chân tình. Bố Hà cũng quý ông hết mực. Những ngày nghỉ, ông thường đến nhà Hà, gặp bữa thì ăn, gặp việc thì làm. Bố con Hà đã quen coi ông như một thành viên trong gia đình. Những buổi tối Hà cùng ông đi dạo. Con đường qua xóm Lá Lốt đã quá quen thuộc đối với ông. Phiến đá to dưới gốc cây si già là nơi ông và Hà hay ngồi tâm sự. Dưới ánh trăng non đầu tháng, Hà gục vào vai ông giọng thỏ thẻ:
- Em vẫn là người hạnh phúc hơn anh. Vì em còn có bố, lại được anh hiểu em, thương yêu em.
Ông ghì chặt đôi vai Hà:
- Giờ đây anh cũng đã có bố rồi và cũng được em yêu…
Hà sụt sịt khóc. Nước mắt ướt vai áo ông. Con tim ông nhói lên vì hạnh phúc. Ông và Hà hẹn ước cuối năm 1970 thì sẽ tổ chức đám cưới. Mấy đêm liền hai đứa ngồi với nhau bàn bạc về tương lai, về những dự định sau này.
Đùng một cái, có lệnh động viên, ông vào quân ngũ. Trước hôm chia tay, hai đứa cứ ôm nhau nức nở. Cả đêm ấy, Hà không muốn rời ông. Hà dúi vào tay ông một gói nhỏ. Đó là một bông hoa mẫu đơn được gói rất khéo trong một chiếc khăn tay. Lúc ấy ông chưa hiểu được ý của Hà. Mãi sau này, khi hành quân trên đường Trường Sơn, ông mới nghĩ ra được. Thì ra Hà muốn làm vợ, muốn làm mẹ trước khi chia tay ông.
“Ôi! Ba ơi là Ba! Ngu ơi là ngu!”, ông tự đấm vào đầu mình.
Rồi những cuộc hành quân chiến đấu trên các mặt trận cuốn ông đi. Có lần ông bị trúng đạn phải đưa về tuyến sau. Khi tỉnh lại, ông tròn mắt ngạc nhiên, người ngồi cạnh giường ông có phải là Hà không? Đúng Hà rồi! Ông đang mơ hay đang tỉnh đây? Ông chớp chớp mắt định vị lại để nhìn cho kỹ. Hà cầm lấy tay ông nức nở:
- Anh Ba! Anh đã tỉnh rồi. Em đây! Hà đây! Anh không nhận ra em sao?
Cứ thế Hà vừa khóc, vừa gọi, vừa lay lay người ông. Ông gượng ngồi dậy.
- Thôi! Anh cứ nằm xuống. Lúc cứu thương đưa anh vào, em nhận ra anh ngay. Không ngờ em lại gặp anh ở đây - Hà vuốt nhẹ lên mái tóc ông - Em tình nguyện đi B từ năm ngoái. Em hy vọng vào trong này sẽ tìm được anh. Đến chỗ nào em cũng hỏi thăm về anh…
Bất ngờ được gặp Hà khiến ông choáng ngợp. Một cảm giác lâng lâng trong người ông.
- Bố ở nhà có khoẻ không em? Máy bay có đánh phá dữ không? Mỏ vẫn sản xuất hay nghỉ? - Đã lâu không nhận được tin nhà, nay gặp được người thân, mừng vui khôn xiết, ông dồn dập hỏi Hà.
- Bố vẫn khoẻ anh ạ. Máy bay đánh phá dữ lắm, nhưng mỏ vẫn sản xuất bình thường.
Những ngày ở trạm quân y tiền phương, ông và Hà thực sự hạnh phúc. Rảnh việc là Hà lại đến với ông. Anh chị em ở trạm rất quý Hà, luôn tạo điều kiện để cho Hà được gần ông. Hôm đến thăm bệnh cho ông, bác sĩ trạm trưởng có nói:
- Anh Ba! Anh cố gắng điều trị cho nhanh khỏi, giải phóng Sài Gòn xong, Trạm sẽ đứng ra tổ chức cho hai anh chị.
Sự quan tâm, săn sóc chu đáo của anh chị em đã làm cho ông cảm động rưng rưng nước mắt. Khi vết thương đã đỡ, Hà dìu ông ra ngoài lán tập đi. Hai người ngồi dưới gốc cây săng lẻ chuyện trò, y như cái đêm chia tay dưới gốc cây si già xóm Lá Lốt.
Hà ôm lấy ông, cắn cắn vào vai ông.
- Giải phóng xong chúng mình tổ chức đám cưới ở Sài Gòn anh nhé!
- Thế còn bố?
- Tổ chức rồi chúng mình xin nghỉ, về ra mắt bố. Em không chờ đợi thêm được nữa đâu.
Cứ thế, ông và Hà hoà nhập vào màn đêm. Một đêm sao mà tĩnh lặng. Không một tiếng súng, không một chùm pháo sáng. Chỉ nghe thấy tiếng tim đập và những hơi thở của nhau…
Ông điều trị được một tuần thì vết thương đã đỡ. Đơn vị cho người đón ông về chuẩn bị cho chiến dịch đánh vào Xuân Lộc. Thế là ông lại phải xa Hà. Đêm trước hôm ra đi, hai đứa ngồi với nhau thâu đêm bên ngọn đèn dầu.
Hà kể hết với ông nỗi nhớ thương trong những ngày phải xa ông, kể cả điều mong muốn thầm kín nhất của Hà. Hà còn bảo rằng, nếu ngày ấy ông để lại cho Hà một giọt máu của ông thì Hà không tình nguyện vào chiến trường. Hà ở vậy sinh con và chờ ông. Hiểu được lòng Hà, ông càng thương Hà, càng quý trọng Hà hơn.
Ông và Hà chia tay nhau. Ông tham gia vào cuộc chiến đấu giải phóng hoàn toàn Miền Nam. Ngày 30/4/1975 Sài Gòn giải phóng, ông cùng ăn mừng ngày toàn thắng với quân dân Sài Gòn. Một tuần sau, Sư đoàn ông được lệnh hành quân lên Tây Ninh và một tháng sau ông đi làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia.
Năm 1979, ông bị thương nặng, phải về nước điều trị tại bệnh viện Quân khu 7. Ngày ra viện cũng là ngày ông nhận được quyết định nghỉ chế độ mất sức. Ông chính thức rời quân ngũ tháng 4 năm 1981.
Trên chuyến tàu thống nhất ra Bắc, bao buồn vui lẫn lộn trong ông. Mới có sáu năm xa người yêu mà ông cứ tưởng như đã xa cách mấy chục năm. Ông chuẩn bị đủ thứ cho Hà: Xe đạp, quần áo, gương lược và các loại đồ dùng cá nhân. Ông còn mua cả búp bê, đồ chơi cho trẻ con, để sau này con ông có thứ mà chơi.
Về tới cơ quan cũ, ông mới được biết Hà đã hy sinh ngay trong trận đánh vào Xuân Lộc. Đứng trước bàn thờ Hà, ông khuỵu xuống ngất xỉu. Bố Hà và bà con xóm phố vội vực ông dậy, đưa ông đi cấp cứu. Mãi tới chiều ông mới tỉnh. Ông rút trong túi ra chiếc khăn mùi xoa có thêu đôi chim bồ câu và hai chữ “Ba - Hà” lồng nhau cùng với bông hoa mẫu đơn đã ép khô, để lên bàn thờ Hà.
Ông nấc trong cổ họng: - Hà ơi! Chiếc khăn và bông hoa em tặng anh, anh luôn giữ bên mình. Đi đến đâu anh cũng thấy có em bên cạnh. Nay em ở đâu? Đêm sương, ngày nắng ai che chở cho em? Nguyện ước của em, anh không đền đáp được, thực là có lỗi với em. Trước vong linh em, anh xin hứa sẽ đi tìm em, dù cho cuối biển cùng trời anh cũng sẽ đưa được em về với bố. Anh sẽ chăm sóc bố, chăm sóc em…
Ông cùng bố Hà lặn lội vào Xuân Lộc để tìm hài cốt của Hà. Gần một tháng trời, qua ba, bốn nghĩa trang, ông và bố Hà cũng đã tìm thấy và đưa được hài cốt của Hà về thị xã. Rồi bố Hà qua đời. Giờ chỉ còn một mình ông. Căn nhà sao mà lạnh lẽo, trống trải. Ông như người mất trí, suốt ngày thờ thẫn ngoài nghĩa trang thắp hương và trò chuyện với Hà. Thị xã đã nhất trí cử ông ra trông coi nghĩa trang. Được ra trông coi nghĩa trang, ông càng có điều kiện để gần gũi Hà, chăm sóc cho Hà hơn. Có người cứ thắc mắc không hiểu sao ông không lấy vợ, ngoài ngũ tuần rồi còn gì. Hỏi ông, ông chỉ cười và lắc đầu. Cũng đã có một vài người mai mối cho ông nhưng chẳng đâu vào đâu…
Đêm nay cũng vậy, ông chẳng muốn về. Ông muốn ngồi đây để nghe tiếng vi vu của gió, tiếng xào xạc của cây, tiếng côn trùng than thở. Ông cầm tờ báo có hình của Hà trên tay, giọng thầm thào:
- Anh đã có em rồi, chỉ một mình em thôi. Em mãi mãi là vợ yêu quý của anh. Tuy chưa kịp làm đám cưới, nhưng chúng mình đã thuộc về nhau rồi, phải không em? Anh sẽ nguyện ở bên em mãi mãi. Lúc trẻ anh đã không lo được cho em, nay về già anh sẽ chăm sóc em…
Tiếng nấc nghẹn của một ông già gầy guộc, khẳng khiu, chìm dần, chìm dần trong đêm tối. Xa xa phía chân đồi, đèn điện sáng cả một vùng thị xã.
Truyện ngắn của Vũ Thế Hùng
Liên kết website
Ý kiến ()