Tất cả chuyên mục
Thứ Tư, 24/04/2024 18:54 (GMT +7)
Nhớ biển
Chủ nhật, 24/09/2017 | 09:57:54 [GMT +7] A A
Tôi nhìn ông rồi nhìn ra biển, lòng thấp thoáng mong ước. Biển vẫn xanh như muôn đời đã xanh.
- Ô! Hình như bác Phục! Có phải bác Phục không ạ?
Thày tôi reo lên như vồ lấy ông. Tôi cũng lập cập, luýnh quýnh. Ông Phục kia. Mới dạo nào...
Ông đến nhà tôi, bụng to như mang trống. Người ông cao, mặc quần phải thắt dải. Ông là cán bộ chỗ bố tôi làm. Vừa được nghỉ hưu, rỗi rãi, ông vào chơi, gửi bố tôi hòm quần áo cũ, người ông bây giờ to ngang ông không mặc nổi:
- Tôi giao tất lại cho xí nghiệp, chờ về quê. Những bộ quần áo từ thời xa xưa. Chả đáng gì đâu nhưng với tôi đó là kỷ niệm khó quên, không thay thế được. Mấy ông bạn một thời chung phòng tập thể cứ rủ tôi ở lại. Bóng bàn, cầu lông, đi bộ, chạy nhảy cho tiêu mỡ.
Nghe chuyện, ông Vui bảo:
- Chạy nhảy gì? Đưa sổ hưu cho vợ con. Tay không bắt hổ. Ra biển với tôi.
Ảnh minh hoạ. |
Tuy cùng làm, quen biết nhau đã lâu, ông Vui nghỉ sớm, ngót chục năm nổi chìm cùng sông nước.
Tưởng chỉ đùa, ai ngờ thật. Hơn tháng thu xếp xong xuôi công việc, ông Phục theo ông Vui. Ông Vui cầm mái chèo đi trước trông như Tôn hành giả, chỉ thiếu lão Trư Bát Giới và Sa đồ đệ...
Đâu được hơn một năm, đến giờ, ông Phục về thăm xóm thợ, người săn như thép nguội. Râu tóc bạc trắng bọc khuôn mặt hồng rực. Giọng nói lại to tát, vập vạp, mạnh mẽ. Biển làm thế nào mà thay đổi ông nhanh đến vậy, trông như con người khác. Bố tôi còn trêu:
- Năm ngoái bác phương phi lắm cơ mà? Hay là bác đẻ rồi?
Ông dang tay chỉ ra phía trước:
- Tất cả do biển đấy! Cả đời ở sát nó mà chúng ta không hiểu nó tí gì. Ông Vui đưa tôi ra Hai Ngọn, Hang Dơi, Hổ Vồ, Báo Chết...Với bạn bè như ông ấy, tôi lớ ngớ lắm. Việc thì đầy nhưng những buổi đầu, họ đều nhắc tôi làm vừa vừa thôi, mệt thì nghỉ. Sắp đèn, vác sào, coi thuyền, trông nước...toàn việc nhẹ nhàng. Bác xem khi ấy, tôi chỉ vác nổi bụng và cầm bút ký tên. Nhiều lúc nhớ mỏ và buồn. Bù lại, không khí thật tuyệt vời. Nhìn về thị xã có cảm tưởng cả không gian bị bụi than đè ép xuống. Lâu nay mù tịt đâu rõ mình tù túng quá. Bác biết ăn gỏi không? Quê tôi trước đây thường có gỏi. Các loại cá nào là mè, chép, diếc...các loại tươi sống kèm với rau thơm, từ bé đã khiếp hãi. Tôi đi lính nghe nói ngon nhưng đã bao giờ dám thưởng thức. Lúc ra biển, có người hỏi, tôi kể tôi biết gỏi sứa. Họ gánh rao bán quanh làng. Những con sứa to như cái nong cái nia, bọc một lớp màng bảo vệ. Người ta khiêng về, xẻ dù sứa thành tấm, tảng cho vào nồi hông (nồi đất to). Cứ một lớp quả vẹt, vỏ đâng giã nát trộn muối lại một lớp thịt sứa đến tận miệng nồi. Thịt sứa sẽ ra nước. Hàng ngày người ta gạn bỏ nước đến lúc gánh bán, miếng sứa chỉ còn hai, ba mươi phần trăm ban đầu. Tảng thịt sứa trắng đục chuyển thành màu nâu đỏ của vẹt đâng. Người mua chấm ăn với mắm tôm hoặc giản đơn hơn, với muối. Thịt sứa có vị chát của vẹt đâng, mặn ngọt của mắm nhưng chủ yếu người ta hay mua vì rẻ. Tôi biết thế chứ nhưng chưa ăn...
Người bạn mới bảo tôi:
- Giờ không ăn thế đâu! Ông ở đây với chúng tôi. Đều là cán bộ về hưu cả, có lương rồi, làm cho vui, cho sảng khoái tinh thần mà xem thời cuộc. Chỉ vài tháng nữa, ông sẽ ăn được tất cả các loại gỏi.
Tôi chưa tin nhưng không phản ứng gì. Vậy mà đúng. Chỉ ba tháng sau...
Tôm vớt lên thả trong chậu còn bơi. Chuẩn bị lá sung, lộc vừng, vọng cách, đinh lăng, sắn thuyền, kinh giới...toàn những cây lá ở vườn. Dăm ba chiếc mủng quấn túm lại, nhón từng con, cấu đầu vặt đuôi, lấy khúc giữa cuộn lá, rải thính, chấm mắm gừng, nhai. Thính phải làm bằng cơm khô rang thơm mới ngon. Để nguyên hoặc giã nát. Để nguyên thường cho vào mắm. Gĩa nát trộn gỏi ăn. Gừng cũng phải đập mới nhiều bột, nhiều vị cay, chứ không thái...Gỏi tôm thơm ngọt, có vị chát bùi của lá, cay thơm của thính gừng và các loại rau ghém. Đầu đuôi tôm vứt xuống nước, cá kéo về tranh nhau, bơi loạn xị, quẫy tùm tũm. Cua cáy, cà khé trong lỗ cũng bò ra, tranh cướp mồi.
Nhiều khi gặp hà to hoặc hà cồn, chúng tôi gỡ mang về. Chuẩn bị mắm. Loại mắm tôm đặc sản Diêm Điền của Thái Bình. Mắm làm bằng loại tôm nhỏ, tép trắng trộn muối, cho vào vại, vò. Tháng sau mang mắm ra mài trên rá hoặc rổ dày. Nước cốt lọt qua. Bã mắm còn lại để chăn nuôi hoặc ủ phân. Thứ nước sền sệt ấy đưa ra nong nia phơi. Nong nia để hơi nghiêng. Nước chảy xuống vại vò hứng bên dưới gọi là nước mắm cốt. Mắm trên nong nia phơi khô cuộn lại thành cuộn, bọc lá dong lá chuối mang bán chợ xa. Mắm ấy thái ra, mịn như giò. Bổ hà ra, vớt ruột cuốn lá thơm, rải thính, chấm mắm cốt.
Trên đất bãi có loài día vỏ mỏng, họ móng tay, có vòi trắng. Ngắt vòi, mang día luộc, vớt ruột trộn thính, lạc, vừng, rau thơm, ăn vòi día sống, giòn thơm ngọt. Lần đầu không quen, bị ngứa, đêm về gãi xành xạch. Bạn bè tủm tỉm cười rồi họ nấu nước vỏ dứa, bắt uống nửa chén con, tẩm khăn bao chỗ ngứa cho tôi. Chỉ bị một lần. Lần sau, tôi cứ tha hồ thoải mái chén.
Ở vùng bãi nước lợ có trùng trục vỏ như don, quéo. Chúng tôi bắt chần nước sôi, ăn với thính, chấm mắm gừng. Có người xa quê gần một đời mới tìm về, thao thiết nhớ đến chết đi được, mong ước ăn bữa trùng trục tái. Ăn xong, người ấy lên giường, chắp tay trước bụng, thanh thản đi.
Cá nhệch là loài không có vảy và rất khỏe. Thịt nhệch ăn ngon miễn chê. Chúng tôi bắt nó bằng dao chuyên dùng. Gặp lỗ nhệch, cắm dao xuống, xoay đảo một vòng, xắn đất lên bắt. Nếu đi mủng phải chuẩn bị móc, ba chia ở quê gọi là cái đinh ba. Cầm ba chia xăm. Xăm đúng nhệch, ba chia oằn giật trên tay. Một tay giữ ba chia, tay kia cầm móc sắt luồn dưới thân nhệch, kéo áp sát vào hất lên lòng mủng. Nếu trên bãi cạn, tôi dận lỗ. Nhệch ở hai lỗ thông nhau. Dồn bùn đất vào một lỗ rồi dận. Nhệch nhoai vọt lên. Tóm chặt đầu nó nhưng phải đề phòng. Gặp nhệch to, nó cuốn chặt đuôi lần theo cổ tay, vặn mình, căng đuôi ra. Đầu bị tay giữ, đuôi có thể vọt lên, chọc thủng nách.
Bắt được nhệch lạng lấy thịt hai bên lườn tẩm thính ăn cùng lá sung, lộc vừng, đinh lăng...chấm nước mật hồ. Mật hồ làm bằng bỗng rượu gạo nếp bỏ cục đường phèn vào nấu lên. Ăn chua chua ngòn ngọt và thơm. Nhưng cá nhệch quý giá ở mật. Uống với rượu rất khó say và mắt sáng ra. Nhất là ở những người cao tuổi như chúng ta đây.
Cá xè mỏng mình. Chọn con dài cỡ hai, ba mươi phân, rộng bốn, năm phân. Dùng nan tre gập đôi luồn qua mồm xuống bụng cá, xoay nhẹ cho ruột cá quấn vào nan lôi ra. Không rửa nước, cắt bỏ đầu, thái chéo, bọc lá sung, chấm nước mật hồ. Ăn tất cả xương thịt. Vị ngọt chua lại mát bổ.
Cá khoai xương mềm, lạng hai bên lườn, cuộn giấy bản cho thấm hết nước, ăn với thính, chấm nước mắm gừng hoặc mắm cốt đặc sản Diêm Điền, ăn đến no.
Ông cứ thao thao bất tuyệt như vậy. Nghe vừa giống như nhà sinh vật học lại vừa giống như một chuyên gia ẩm thực. Lênh đênh trên biển cùng bạn chài ra lộng vào khơi, đánh bắt khi biển trời yên lặng và gồng mình chống chọi bão tố bất ngờ. Có ngày ông chạy loạn lên khi gặp bày he đuổi đánh cá mập. Bùn cát cuộn tứ tung, bụi nước ào ào. Có bận phóng lao vào lưng cá đuối to khiến nó vùng kéo thuyền vun vút. Tay giữ thuyền, tay nương thừng cho đuối kéo, trì lôi đến thắt ruột đứt hơi.
-Từ một thằng bụng to sức yếu, tôi đã thành người không đến nỗi. Hôm nay về đây, tôi muốn xin lại bác chỗ quần áo năm nào tôi không mặc được, giờ chắc vừa. Mấy bộ mang đi, giờ rộng quá đành phải bỏ. Mong bác thông cảm cho tôi. Giờ tôi đã thành người khác. Khi cùng bạn thuyền đi reo (chạy thuyền hơn chục tấn, kéo theo hàng loạt thuyền mủng ra khơi, quây vòng, gõ phàng, hò la đuổi cá chạy vào lưới) bắt được cá xè, gặp khi nắng to khát đến rách cổ, tôi dám dùng hai ngón tay bóp chặt đầu cá, quật qua vai mình cho mồ hôi muối thấm vào, nhai nuốt ngon lành. Dù ở xa, tôi cũng biết thuyền ấy, mủng ấy, cách chạy máy, kiểu dong tàu là của ai rồi. Nói không được nhưng cảm thấy chẳng bao giờ sai lẫn. Bác thấy không. Nếu không có phúc, tôi đã tan theo bọt bia và những trò vô bổ từ lâu rồi. Được thế này là nhờ biển đấy.
Tôi nhìn ông rồi nhìn ra biển, lòng thấp thoáng mong ước. Biển vẫn xanh như muôn đời đã xanh.
Truyện ngắn của Nhà văn Trần Tâm
Liên kết website
Ý kiến ()