Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 29/03/2024 14:16 (GMT +7)
Thơ Quảng Ninh với đề tài chiến tranh cách mạng
Chủ nhật, 23/07/2017 | 13:32:48 [GMT +7] A A
Thơ Quảng Ninh viết về đề tài chiến tranh cách mạng chủ yếu nở rộ trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước với nhiều gương mặt rất riêng.
Một số tập thơ viết về chiến tranh của các tác giả Quảng Ninh. |
Thơ Quảng Ninh nửa đầu thế kỷ 20 với vai trò là bộ phận văn học viết có đặc điểm khá mờ nhạt, ít có thành tựu. Giai đoạn này chủ yếu là thơ khuyết danh, truyền miệng được xếp vào ca dao Vùng mỏ với nội dung tố cáo tội ác của thực dân Pháp và bọn cai ký chủ mỏ. Nhưng chỉ qua thời gian ngắn, từ chống Pháp sang chống Mỹ, thơ Quảng Ninh đã có sự thay đổi căn bản cả về nội dung và hình thức, đội ngũ và diện mạo. Trong tuyển tập thơ “Thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước” (NXB Hội Nhà văn ấn hành), dày 1.624 trang, tập hợp hàng trăm tác giả, Quảng Ninh có 12 nhà thơ góp mặt là Long Chiểu, Phạm Doanh, Trí Dũng, Yên Đức, Sỹ Hồng, Lê Hường, Trần Nhuận Minh, Thuỷ Nguyên, Triệu Nguyễn, Mai Phương, Thi Sảnh và Đào Ngọc Vĩnh. Đây là những nhà thơ tiêu biểu nhất đại diện cho thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong chiến đấu, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, cùng xây nên một diện mạo thơ Vùng mỏ.
Các tác giả như Trần Nhuận Minh, Lê Hường, Yên Đức, Triệu Nguyễn, Đào Ngọc Vĩnh, Mai Phương, Phạm Doanh, Thi Sảnh, Trí Dũng, Long Chiểu, Sĩ Hồng, Thuỷ Nguyên, Thái Giang... say mê sáng tác thơ ca trong giai đoạn chống Mỹ. Một số tác giả như: Phạm Doanh, Thi Sảnh, Long Chiểu, Mai Phương, Triệu Nguyễn, Lê Hường, Trần Nhuận Minh sống và sáng tác vắt mình qua 2 thế kỷ. Hiện nay, người ít, người nhiều họ vẫn đang sáng tác với phạm trù thi pháp sẵn có của giai đoạn trước. Người chịu đổi mất, nhưng lại không được xếp vào nhóm này là Như Mai: “Tội ác Mỹ rất văn minh/ Đẩy cái chết bay nhanh/ Hơn tốc độ âm thanh/ chạm phải mây trời ta/ trăm trận/ tan tành/ Cộc Sáu mây vàng/ Hà Tu mây tím/ mây đạn săn thù/ đỏ lự/ bến đò Chanh” (Núi Bài thơ Cờ đỏ và Huân chương).
Các nhà thơ không chứng minh cuộc chiến đã diễn ra thế nào, mà đi sâu vào chuyện đã sống thế nào để vượt qua cuộc chiến. Do đó, thơ Quảng Ninh giai đoạn chống Mỹ không viết về hậu quả chiến tranh với sự bi quan, nhuốm u uẩn, mà thậm chí sự tàn phá chỉ là nét tô điểm thêm, khẳng định sức vươn lên mãnh liệt của con người Vùng mỏ. Đặc điểm này hiện lên rõ nhất trong tác phẩm của Lê Hường, Long Chiểu, Mai Phương, Triệu Nguyễn, Đào Ngọc Vĩnh, Thuỷ Nguyên... Tiêu biểu nhất có lẽ là Long Chiểu. Cả đời chỉ in duy nhất một tập thơ nhưng nhắc đến nhà thơ Long Chiểu bạn yêu văn chương Quảng Ninh ai cũng biết. Thơ Long Chiểu trước đây chủ yếu viết trong những năm tháng Vùng mỏ làm than và đánh giặc. Long Chiểu miêu tả Vùng mỏ trong bom đạn ác liệt nhưng vẫn phát hiện ra cái bình thản của con người: “Bát mì có khói bom xô/ Củ khoai đất chói pháo dù đêm đêm/ Đất nuôi lớn bổng đời em/ Vút trong chiều hạ bông sen trắng hồng...” (Một chiều Hạ Long).
Nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nhận xét: “Thơ Quảng Ninh là một trong những cái nôi được chú ý nhất trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Nhiều giọng thơ đã góp phần hình thành 3 trung tâm thơ ca lớn phía Bắc: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Hay nói cách khác, Quảng Ninh cùng với Hà Nội, Hải Phòng hình thành một “tam giác” thơ phía Bắc thời chống Mỹ...”.
Sau năm 1975 cho đến nay, dù chiến tranh đã lùi xa nhưng dư âm của nó trong thơ Quảng Ninh vẫn còn được nối dài với hàng loạt cây bút như: Lê Duy Thái, Ngô Tiến Cảnh, Nguyễn Quang Vinh, Trần Quang Ngân, Đỗ Minh Tâm, Đinh Đức Cường, Nguyễn Thị Hoàng Hoà, Lương Liễm, Trần Quang Thanh v.v.. Thơ Đinh Đức Cường giản dị đến mức “thật thà” khi viết về những nỗi day dứt một thời chiến tranh đã qua, đồng đội còn nằm lại ở chiến trường. Thơ Trần Quang Ngân với “Khúc tráng ca Thành Cổ”, “Hoa đăng Thạch Hãn”, và “Nỗi niềm” theo đánh giá của nhà thơ Nguyễn Châu thì đã khắc hoạ một phần nào những khó khăn gian khổ, những mất mát hy sinh của cả đất nước vào trận để giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Tình cảm riêng lẫn trong tình yêu lớn, được anh ghi trong thơ chân thật và xúc động như tâm trạng của người thanh niên lên đường cứu nước. Là người anh lính giải phóng quân trở về lại gắn bó suốt đời với binh nghiệp khi tham gia lực lượng Bộ đội biên phòng, Nguyễn Quang Vinh làm thơ rất nhiều về người lính về chiến tranh. Ông ngợi ca sự hy sinh cao cả của đồng đội, day dứt với những mất mát từng tấc đất quê hương. Hay như tác giả Nguyễn Thị Hoàng Hoà có những câu bi hùng: “Hôm nay đồng đội đã đến đây/ (Có phải hồn thiêng anh mách bảo?)/ Kìa ráng chiều đỏ lên như giông bão/ Vòm cây xanh run rẩy tiễn anh về” (Thi hài trên cây).
Người viết nhiều về chiến tranh nhất có lẽ phải kể đến Lê Duy Thái với 3 tập thơ toàn viết về ký ức chiến tranh là “Một thời ra trận”, “Tiếng vọng cỏ xanh” và “Chuyện tình thời chiến tranh”. Tập thơ nào cũng ấm áp nghĩa tình của những người lính dành cho nhau sự chia sẻ cả gian khổ hy sinh. Người lính trong thơ Lê Duy Thái có mất mát hy sinh nhưng luôn mang phẩm chất cao đẹp được viết bằng cảm hứng sử thi, anh hùng ca. Đây có lẽ cũng là giọng điệu chung trong thơ của một số tác giả từng là cựu chiến binh hoài niệm về cuộc chiến tranh đã trải qua.
Huỳnh Đăng
Liên kết website
Ý kiến ()