Tất cả chuyên mục
Thứ Tư, 24/04/2024 14:06 (GMT +7)
Sắc hương hoa trái vườn đời và nơi trở về (Nhân đọc tập thơ "Hoa trái vườn đời" NXB Hội Nhà văn năm 2016 của tác giả Bùi Văn Điền)
Chủ nhật, 25/09/2016 | 06:42:25 [GMT +7] A A
Hoa trái sinh ra trong trời đất đều có “tiếng nói” của riêng mình. “Tiếng nói” của hoa trái là sắc và hương. Sắc và hương tác động đến thi sĩ thông qua thị giác, khứu giác và các rung động từ thẳm sâu tâm hồn, thông qua cấu tạo, hình thành ngôn từ mà bật ra. Điều tôi đang nói đến ở đây có trong tập thơ Sắc hương hoa trái vườn đời.
Tập thơ của Bùi Văn Điền gồm có hai phần: Phần I là Sắc hương hoa trái, phần II là Vườn đời. Ở phần I gồm có 44 bài thơ về các loài hoa riêng biệt như dã quỳ, lục bình, anh đào, bằng lăng, tam giác mạch, phong lan, bìm bịp... Hoa chỉ đẹp khi được đặt trong đúng không gian của chúng. Khi bị bứng đi trồng, ghép ở nơi khác hoa chỉ còn là cái xác không hồn. Thật đẹp và mỏng manh như nỗi buồn bất chợt bừng lên mơ hồ vậy. Cảm thấy đấy mà lại khó nói ra bằng lời ăn tiếng nói thông thường. Họa chăng chỉ có thơ là chuyển tải được phần nào.
Và trong phần I của tập thơ, tác giả đã làm được điều này. Thật thú vị với những câu thơ trộn được cả cái tình bên trong lẫn hương cái sắc bên ngoài như: “Mùi hương dịu nhẹ hăng hăng/ Xa rồi còn hỏi: phải chăng Dã quỳ” trong bài Hoa dã quỳ. Là chia sẻ trong bài Hoa phượng: “Có ai bảo phượng thật thà/ Với tôi hoa phượng là hoa hết mình”. Là bừng ngộ nhận ra: “Thân hoa tuyết trắng ngời ngời/ Hồn hoa cốt cách con người trượng phu” trong bài Hoa anh đào. Rõ ràng, ở đây tác giả đã dựng được đời sống cho hoa. Đến như Hoa hòe, chỉ nụ thôi mà cũng sống được một đời hiên ngang thế: “Âm thầm hạt nụ li ti/ Khiến đời nể trọng cũng vì không hoa”.
Ở phần hoa là nét đẹp của sự uyển chuyển, mềm mại, mỏng mảnh; sang đến phần quả lại là nét đẹp của sự cứng rắn, của những khẳng định, nhiều khi là nỗi buồn. Như trong bài Trái mướp: “Vì cây nên quả không đành/ Chết già giữ giá mà thành búi xơ”. Là nỗi đau tiếc nuối đến nhức nhối về một thời trai trẻ đã qua trong bài Trái nhót: “Một đời biệt xứ lang thang/ Nay về trái nhót vườn làng còn không?”
Phần II, Vườn đời gồm 43 bài, chia ra làm các mảng chính là quê hương của “cái tôi trữ tình” và những vùng miền đất nước mà “cái tôi trữ tình” đã thương. Quê hương trước nhất là Quê hương nói chung: “Quê hương ơi thương nhớ/ Hồn quê quá đậm đà/ Quê hương là tất cả/ Trong lòng người đi xa”. Rồi đến Quê cha: “Quê cha cội nguồn là vậy/ Linh thiêng xương cốt ông bà/ Buồn vui để lòng khuây khỏa/ Ấm tình ngôi nhà mẹ cha”. Sau là những mùa đông ngùn ngụt kéo về, gợi lên trong lòng cô khách nỗi nhớ day dứt, cay đắng về nơi mình đã sinh ra, lớn lên mà sau vì mưu sinh phải xa cách. Như trong bài Rét ngọt đầu đông: “Rời làng từ thuở biết yêu/ Trái tim phơi nhiễm quá nhiều mộng mơ/ Kiếm ăn từ đấy đến giờ/ Chỉ còn lại mấy vần thơ đãi làng”.
Ở mảng khác là những vùng miền đất nước yêu thương, như Chợ nổi sông nước miền tây: “Chợ trên sông nước bềnh bồng/ Mải chơi ngắm chợ, người không muốn về”. Là Đất mũi: “Bạt ngàn rừng đước chở che/ Hiên ngang doi đất bốn bề sóng vây/ Cõi bờ Tổ quốc là đây”. Là Đồi chè: “Sương chiều một chút dư âm/ Mà thành thương nhớ ướt đầm vai ai”. Là Ruộng bậc thang: “Như vầng trán suy tư/ tạc vào trời/ quyết liệt/ Sáng bừng lên: Ý CHÍ CON NGƯỜI”. Và xa hơn, yêu thương nhức nhối hơn là Tiếng vọng Gạc Ma: “Nghìn con sóng vọng Hoàng Sa/ Có con sóng ở Gạc Ma dội về/ Bao năm vẫn cháy lời thề/ Sáu tư hồn quyện là cờ phiêu diêu”.
Nhưng dù thế nào người thơ cũng vẫn cần nơi trở về trong tâm tưởng, để có thể hưởng chút yên lành. Như bài Trước mộ Nguyễn Du: “Rót rượu mời! Ta khóc Tố Như ơi”. Hay Trước tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông: “Xin hãy nhớ câu: Phật ở chính tâm mình”. Và như thế cũng đã đủ vẹn tròn cho Sắc hương hoa trái vườn đời.
Đinh Phương (CTV)
Liên kết website
Ý kiến ()