Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 29/03/2024 15:14 (GMT +7)
Thế giới cỏ hoa trong thơ Lê Duy Thái
Chủ nhật, 06/01/2013 | 04:45:31 [GMT +7] A A
(Nhân đọc tập thơ “Tiếng vọng cỏ xanh” (NXB Văn học, 2012)
“Tiếng vọng cỏ xanh” là tập thơ khá dày dặn, với 150 bài thơ của Lê Duy Thái. Tập thơ được chia làm 3 phần rất rạch ròi, nhưng xuyên suốt là một âm hưởng chung, đó là giọng điệu của cỏ hoa vọng lời trăn trở của kiếp người…
Phần I lấy tên “Tiếng vọng cỏ xanh” viết về những kỷ niệm của tác giả trong những năm chiến tranh ác liệt và cả những ám ảnh thời hậu chiến. Lê Duy Thái đã đề tựa cho phần đầu bằng hai câu thơ rất gợi: “Ta quỳ xuống bò bàn tay áp cỏ/ Lòng run lên hương đất thầm thì”. Không hiểu sao khi đọc tập thơ này, tôi cứ hình dung về hình ảnh một người đàn ông mái đầu đã bạc lặng lẽ làm một cuộc lãng du trên đồng cỏ bao la. Đi đến đâu, ông cũng bước nhẹ nhàng vì sợ dưới thảm cỏ xanh kia là nơi đồng đội mình đang yên nghỉ: “Rón rén bước gan bàn chân rờn rợn/ Nghe rì rầm tiếng vọng cỏ xanh/ Đồng đội ơi!/ Các chị, các anh/ Xương cốt lặng im rải rác nằm đâu đó” (Trên cỏ). Hình ảnh ấy lặp đi lặp lại nhiều lần trong thơ Lê Duy Thái: “Vào lại chiến trường xưa/ Ta run run trong mỗi bước đi/ Lòng rưng rưng nghe âm vang nắng gió/ Tiếng vọng cỏ xanh/ Thì thầm đâu đó/ Đồng đội gọi ta” (Tiếng vọng cỏ xanh). Tiếng vọng dưới cỏ xanh chính là tiếng đồng đội của ông đã hy sinh nhưng còn mang nhiều nỗi niềm trăn trở: “Bãi tràn hoa cỏ vàng/ Nấm mồ còn đất đỏ như son/ Hình như dưới mồ còn đang trăn trở/ Điều gì khát vọng không tan?” (Nấm mồ). Dù mang sắc xanh non, hay màu vàng úa thì cỏ hoa cũng gợi nhắc nhà thơ về đồng đội của mình: “Ta bơ vơ đi tìm dấu cũ/ Bạn nằm đó dưới bờ hoa/ Cành thông già ôm vầng trăng lạnh/ Sắc cỏ non thơm biếc phủ đồi xa” (Trầm tư Đà Lạt). Lại có khi Lê Duy Thái như nghe thấy dưới cỏ xanh vọng về lời tâm tình của những linh hồn vốn là người lính ở hai bên chiến tuyến. Giờ đây, mọi hận thù không còn nữa, họ ở bên nhau, cùng hóa thân vào hoa cỏ: “Lung linh hai vệt sáng/ Góc rừng thơm hoa lan/ Chập chờn đôi bướm trắng/ Xao động xanh lá ngàn” (Hai linh hồn trò chuyện)...
Và có thể nói, cho đến tận cùng, hành trình lắng nghe lời đồng vọng cỏ xanh của Lê Duy Thái cũng chính là cuộc tìm kiếm sắc màu và mùi hương, cuộc kiếm tìm cái đẹp: “Lê tấm thân khát bỏng/ Bò theo mùi cỏ non/ Bông hoa nhỏ đẫm sương/ Mát cổ họng nâng hồn ta dậy/ Thoảng dịu làn hương… Từ đấy/ Ta nhớ mùi thơm/ Tia trăng trên lá/ Hạt sương cỏ non/ Suốt đời ta mê mải tìm hương…” (Mãi tìm hương). Đó là một hành trình khổ ải, một cuộc kiếm tìm đầy nhọc nhằn của “loài thi sĩ” (chữ dùng của Hàn Mặc Tử). Cái đẹp đôi khi phải đánh đổi bằng cả sự hy sinh. Màu đỏ của hoa đôi khi cũng thấm máu. Hình ảnh hoa - máu không mới nữa, nhưng đặt vào thơ Lê Duy Thái vẫn ám gợi: “Một chấm hoa/ Lìa cành trong lửa đạn/ Chiến hào rừng rực đỏ/ Nụ cười em cháy thành than/ Trăng vọt lên ròng ròng máu chảy!” (Chiến trường hoa máu). Máu và hoa có tiếng lòng riêng luôn ám ảnh tiềm thức của người còn sống: “Trông ra/ Nụ hồng ướt đẫm sương sa/ Từng giọt hương rơi đỏ máu/ Ta ngồi đau đáu sớm mai lên/ Chân mây trắng cháy hồng” (Tiếng gọi).
Ở phần II của tập thơ (“Miền xưa trăng khuyết”), cỏ hoa cũng có mặt nhưng là để giúp Lê Duy Thái ký thác nỗi lòng đau đáu về quê hương, người thân, người yêu. Hình ảnh nổi bật nhất trong mảng thơ này là bóng hồng trong quá khứ. Cỏ hoa đã gói gém lưu giữ một dáng hình mà cả đời nhà thơ còn vương vấn: “Em xinh búp ngọc lan hương/ Trắng bông sen trắng nồng thơm thị vàng/ Mua đường đi học qua làng/ Ngọc lan em gói trong trang thơ tình” (Ngọc lan). Hay như: “Em còn đẹp đến ngỡ ngàng/ Còn say mê đến bàng hoàng ngẩn ngơ/ Còn về trong mọi giấc mơ/ Còn đi đến tận bờ hoa cỏ tràn” (Em đẹp). Đó là thế giới cỏ hoa tươi tắn, tinh khôi nhưng cũng có lúc mang dáng vẻ ủ rũ, điêu tàn, cưu mang sự nuối tiếc của tác giả về một nét mặt của cô thôn nữ nào đó giờ đã phôi pha: “Em buồn mặt héo đăm đăm/ Vầng trăng khuyết giữa đêm rằm xót xa/ Tuổi hoa chẳng được như hoa/ Niềm vui vừa mới nở ra đã tàn” (Miền xưa trăng khuyết). Nuối tiếc để rồi lại khát vọng, chỉ có điều cái khát vọng ấy khá mơ hồ: “Cánh cò thả trắng tầng không/ Heo may buông nắng rải đồng khói mây/ Ta ngồi lút giữa cỏ gầy/ Ngắm cành thu chín xem ngày lá rơi/ Khi nào bỏ lại cuộc chơi/ Về trong vệt sáng cuối trời tìm em” (Cánh võng mẹ ru). Từ mơ hồ lại đến vô vọng, nhân vật trữ tình quay về với nỗi đau của kẻ “thất trận”. Và ở đây, cỏ hoa đã mất đi cái dáng vẻ mềm mại lả lướt mà trở nên sắc lạnh, cắt cứa cõi lòng: “Cỏ non sao sắc như chông/ Em đi theo chồng anh bước chân đau/ Chỗ này ta đứng đợi nhau/ Bóng tre che khuất mái đầu chạm đôi” (Dấu cũ kiêu sa). Suy rộng ra, cái hành động mê mải tìm người yêu trong thế giới cỏ hoa của Lê Duy Thái cũng chính là cuộc kiếm tìm bản thể: “Ta đi về phía chân trời/ Nương theo câu hát hồn người yêu ta/ Ta ngồi mê mải trước hoa/ Say sưa với cỏ giao hòa tâm can/ (… ) / Cỏ cười nâng bước ta lên/ Hướng đi vàng ánh nắng xiên vãn chiều…” (Mong phía chân trời). Đi tìm chính mình là một cuộc hành trình dài tít tắp, hun hút và nhiều khi vô vọng. Nhân vật trữ tình nhặt cỏ lên, ngắm nhìn và phát hiện ra điều đó: “Câu thơ ai thả gió bay/ Quỳ xuống nhặt cỏ lên tay ngắm nhìn/ Hình như khao khát đi tìm/ Ngôi sao đơn chiếc lạc miền nhân gian” (Nhặt được câu thơ). Khi ấy, người ta dễ tìm đến với thơ để trang trải cõi lòng. Ngay cả những tuyên ngôn về thơ của Lê Duy Thái cũng nuốm màu hoa cỏ. Đó là thứ cỏ hoa chuyên chở tâm tình của con người: “Câu thơ đỏ thắm nhân sinh/ Dệt vàng sợi nắng vắt cành hoa sen” (Lục bát tìm hương).
Phần cuối (“Lục bát riêng nhau”) Lê Duy Thái tặng riêng cho Dương Phượng Toại, một cây bút lục bát khá nổi tiếng ở Quảng Yên. Có lẽ, Lê Duy Thái và Dương Phượng Toại cùng chung cái tâm sự thương nhớ hoa cỏ đồng quê: “Sao em không nói một lời/ Câu thơ nào, giọt lệ rơi trong lòng/ Lặng ngồi thương nhớ cánh đồng/ Mảnh mai thân lúa gánh gồng hương quê” (Tiếng thơ thao thức). Ở đây Lê Duy Thái đã làm một cuộc hẹn hò trăm năm với cỏ hoa đồng nội: “Đêm thanh thánh thót mưa rơi/ Lặng nghe vọng tiếng chân trời từ đâu/ Heo may đồng rải hoa cau/ Mùa hương chưa gặt mai sau hẹn về” (Hẹn). Chính vì mối lương duyên với cỏ hoa ấy mà Lê Duy Thái đã viết ra được những câu thơ có hồn. Người đọc không khó để tìm ra được những câu lục bát như thế này: “Sông trôi hương cỏ đôi bờ/ Bến neo mây trắng lòng chờ trời xanh/ Cắm sào đợi mắt long lanh/ Thuyền thơ dong cánh buồm tình bốn phương” (Hương cỏ đôi bờ). Hay như: “Nắng thu vàng cánh hoa hồng/ Mưa thu trút đỏ lòng sông tràn bờ” (Triết lý cỏ).
Thơ Lê Duy Thái đã dệt nên một thế giới cỏ hoa đa sắc màu, nhiều diện mạo. Chắc hẳn, do lọt lòng ở nơi bến sông có mùa hoa cải nở vàng nên cả đời ông cứ mải mê cái nghiệp cỏ hoa tơ lòng vấn vít: “Mẹ sinh mùa cải bên sông/ Hanh hanh ngọn gió nắng đồng vàng chanh/ Bãi xanh ngô bật mầm xanh/ Gió lay cỏ mật cựa mình lên hương” (Bến Chanh chiều nhớ Kinh Thầy). Và chính cỏ hoa đã làm ra một giọng điệu thơ Lê Duy Thái…
Phạm Học
Liên kết website
Ý kiến ()