Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 19/04/2024 23:38 (GMT +7)
Mùa xuân với những ân tình đặc biệt
Thứ 2, 30/01/2017 | 01:35:31 [GMT +7] A A
Sinh ra và lớn lên tại Hải Dương nhưng ông Phạm Thế Duyệt đã trưởng thành ở Vùng mỏ. Vì thế sau này, khi đã trải qua nhiều chức vụ quan trọng như: Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bí thư Thành uỷ Hà Nội; Uỷ viên Thường vụ - Thường trực Bộ Chính trị khoá VIII; Chủ tịch Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam khoá V; Đại biểu Quốc hội các khoá VIII, X, XI; hay như bây giờ về nghỉ hưu thì Vùng mỏ luôn ở trong trái tim ông. Ông bảo, ông luôn tự hào và biết ơn mảnh đất và con người Quảng Ninh. Trước thềm xuân mới, ông Phạm Thế Duyệt đã dành cho PV Báo Quảng Ninh cuộc trò chuyện cởi mở.
Ông Phạm Thế Duyệt thăm hệ thống cột thuỷ lực chống lò tại Công ty CP Cơ khí Mạo Khê - TKV. Ảnh: Phạm Mạnh Hùng |
Bước nhanh trong những mùa xuân đổi mới
- Thưa ông, từ mùa xuân này, chúng ta nhìn lại 30 mùa xuân đổi mới, theo ông, đâu là những thành quả lớn nhất mà ngành Than và những người thợ mỏ đã đạt được?
+ Nhìn chung, trong 30 năm đổi mới, ngành Than có những bước phát triển rất tốt. Nó tốt bởi đường lối đổi mới của Đảng đã được anh em trong ngành Than nắm bắt vận dụng rất nhanh chóng, tích cực nên đã đem lại bước phát triển rất đồng đều. Không những thế, anh em còn biết vận dụng khoa học công nghệ vào khai thác, sản xuất. Tất cả các mỏ chứ không riêng gì mỏ nào đều đạt được thành tựu tích cực...
- Với sự quan tâm, đồng hành cùng ngành Than trong những năm qua, ông có thể dẫn ra một số ví dụ cụ thể để minh chứng cho điều đó?
+ Tôi ví dụ ngay như mỏ thủ công như mỏ Mạo Khê giờ cũng đạt sản lượng hơn 2 lần so với trước đây. Trước đây, chúng tôi ước ao một mỏ hầm lò được khoảng 90 vạn tấn một năm đã là rất khó. Ấy vậy mà bây giờ hầu hết công suất các hầm lò đều đạt trên dưới 2 triệu tấn một năm có nơi trên 3 triệu. Ngành Than cũng biết phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại với nhiều nước trên thế giới để mà tranh thủ học hỏi khoa học kỹ thuật, mua thiết bị máy móc hiện đại. Anh biết đấy, phải đi lên bằng khoa học kỹ thuật chứ ngành Than không thể đi lên chỉ bằng ý chí được...
- Đúng như ông nói, nhờ khoa học kỹ thuật, ngành Than đã hiện đại hoá công nghệ đào lò rất nhiều. Ông cảm nhận như thế nào về điều này?
Trong cơ chế thị trường, xã hội có những cái không hay nhưng tôi lúc nào cũng tự hào ở đội ngũ cán bộ công nhân viên ngành Than luôn giữ vững truyền thống “Kỷ luật và Đồng tâm”. |
+ Tôi nói như cơ khí mỏ cũng đã phát triển hơn hẳn trước và làm thay đổi phương pháp khai thác mỏ. Trước đây, chủ yếu khai thác lộ thiên thì giờ chuyển sang hầm lò, từ lò bằng chuyển sang giếng nghiêng, rồi giếng đứng. Còn nhớ lúc mới khai thác giếng nghiêng cũng còn khó khăn lắm. Lúc tôi còn ở Mạo Khê, đã phải mời 400 chuyên gia Trung Quốc sang hỗ trợ để làm giếng phụ rồi họ bỏ dở họ về làm mình chật vật. Giờ anh em đều tự chủ được hết. Bởi thế đi đến đâu tôi cũng thấy rất vui mừng. Anh em đã xuống sâu sơn. Công nghệ tiên tiến được anh em làm rất ngon lành chẳng thua kém gì nhiều nước trên thế giới. Rồi thì băng tải hoá, cơ giới hoá, xe song loan, giàn chống thuỷ lực, giàn chống tự hành, máy khai thác tổng hợp đã nâng công suất lên 60 vạn tấn một năm ở chỉ một lò chợ. Trước đây, tôi ao ước một lò chợ được 9 vạn là vất vả lắm. Thế mà một lò chợ Hà Lầm bây giờ được 50 vạn, rồi đây sẽ là 120 vạn tấn trong một năm. Anh biết không một lò chợ bây giờ bằng công suất cả một mỏ trước đây cơ đấy.
Rồi đến chuyện đào lò, trước đây đào lò nhanh giàn khoan khoảng 30 mét là vất vả lắm giờ đào được hơn trăm mét gần 2 trăm mét không có gì khó. Rồi hệ thống vận chuyển trước đây loanh quanh xe goòng 3 tấn, giờ là máng cào và băng tải rất nhẹ nhàng. Về giàn chống trước toàn gỗ và chỉ có gỗ chống lò. Tôi còn nhớ trước khi đi Đại hội V mà còn phải tranh thủ vào Ba Chẽ lên Bắc Thái lo được mấy nghìn mét khối gỗ mới yên tâm đi đại hội. Giờ anh em sử dụng giàn chống thuỷ lực, giàn chống tự hành nên nhu cầu dùng gỗ trong khai thác than đã giảm hơn 4 lần so với trước đây. Trước đây cứ 1.000 tấn than cần 40m3 gỗ, bây giờ chỉ cần khoảng 10m3 là đủ. Tôi kể ra những con số ấy để thấy được sự tiến bộ của anh em so với chúng tôi trước đây...
- Tỉnh với than là một. Trong sự phát triển của ngành Than như ông vừa phân tích thì thành tựu của Quảng Ninh trong 30 năm đổi mới được ông cảm nhận thế nào?
+ Thực ra đây là mối quan hệ giữa hình với bóng. Ngành Than phát triển là Quảng Ninh phát triển, Quảng Ninh yên tâm, Đảng bộ Quảng Ninh vững mạnh hơn. Những nơi phát triển ở Quảng Ninh đều nhờ cơ sở vật chất của ngành Than làm giàu cho đất nước đã đành nhưng cũng góp phần tạo điều kiện cho tỉnh phát triển vừa đóng góp xây dựng đội ngũ, chăm lo cho các gia đình công nhân. Những thành phố như: Hạ Long, Cẩm Phả, Uông Bí đại bộ phận là gia đình thợ mỏ, con em công nhân mỏ. Bây giờ người ta đang quan tâm nhiều hơn đến phát triển du lịch dịch vụ. Tôi không phủ nhận điều đó. Tôi vẫn cho rằng, như quan điểm của đồng chí Lê Thanh Nghị, đối với Quảng Ninh ngành Than vẫn là mũi nhọn, các ngành kinh tế khác phải xoay quanh nó để cùng phát triển. Quảng Ninh có lợi thế không nơi nào có được là tồn tại một ngành kinh tế không chỉ quyết định sự phát triển của tỉnh mà còn của đất nước. Tôi nói vậy từ góc độ một người đi lên từ ngành Than, người trưởng thành từ Đảng bộ Quảng Ninh.
Ngược lại, Quảng Ninh luôn là chỗ dựa cho ngành Than thể hiện ở chỗ xây dựng cơ sở chính trị, các tổ chức quan tâm đời sống công nhân, đề xuất với Đảng và Nhà nước các chính sách cho công nhân mỏ. Đây là quan hệ hình và bóng. Hình mà cao thì bóng sẽ dài...
Mùa xuân lại nhớ ân tình thợ mỏ
- Thưa ông, mỗi mùa xuân đến, ông có ước mong gì cho những người thợ mỏ?
+ Anh hỏi tôi có suy nghĩ gì, ước mong gì ư? Nhiều lắm. Bác Hồ đã dạy rằng “Làm than như quân đội đánh giặc”. Bao giờ ra khỏi lò, người thợ lò mới thấy mình an toàn. Năm 1977, tôi không còn làm thợ lò mà đã là Giám đốc mỏ Mông Dương rồi vẫn còn bị gẫy chân. Trước đây, được một triệu tấn than phải hy sinh 4 người. Bây giờ ít hơn nhưng vẫn có hy sinh. Đã như quân đội đánh giặc thì tránh sao được hy sinh. Tôi chiêm nghiệm lời Bác dạy thấy chẳng có thể dùng lời lẽ nào diễn đạt chính xác hơn được. Người chiến sĩ đáng trân trọng thế nào thì người thợ mỏ cũng đáng được trân trọng như vậy. Cho nên hầu hết các mỏ đều có Anh hùng, không Anh hùng LLVTND thì Anh hùng Lao động, có tập thể Anh hùng, đội đào lò phân xưởng mỏ lộ thiên Anh hùng, có cả cá nhân Anh hùng. Đó là sự động viên rất kịp thời. Nhưng mà hiểu về gian khổ của thợ mỏ ngành Than thì chưa phải ai cũng hiểu.
Bác dạy “Làm than như quân đội đánh giặc”. Tôi mong giá như bây giờ có những chính sách cho thợ lò giống như quân đội thì có lẽ chăng mới đúng lời của Bác. Tôi đã từng làm Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam nên không có công nhân nghề gì mà tôi chưa tiếp xúc và tôi thấy đều không gian khổ bằng nghề mỏ. Tôi mong xã hội đừng hiểu rằng ngành Than dễ dàng chỉ cần móc tài nguyên ở dưới đất lên là xong. Càng xuống sâu thì càng vất vả, càng cần kỹ thuật khoa học công nghệ cao hơn...
Tôi bây giờ đã nghỉ hưu nhưng vẫn theo sát, đồng hành với thợ mỏ nên từng bước đi từng bước khó khăn mở vỉa thế nào, chất lượng than làm ra tốt đến đâu tôi đều biết. Nói không phải để bênh vực thợ mỏ vì tôi là người trong cuộc mà thực tế nó vậy. Và thêm nữa, tôi mong các cấp, các ngành quan tâm đào tạo thêm những người thợ ưu tú để sau này trở thành những cán bộ chủ chốt. Làm thợ mỏ giỏi đã có thực tiễn mà được đào tạo thêm để thành cán bộ trung thành hết lòng vì Đảng, vì nước, vì dân thì thật đáng quý. Ngay bản thân tôi nếu không có Đảng bộ Quảng Ninh không có những năm tháng ở Mông Dương, Mạo Khê, Uông Bí, Dương Huy rèn luyện mình thì làm sao mà trưởng thành được. Cái gì tôi có là do đi lên từ Vùng mỏ...
- Theo ông, di sản “Kỷ luật và Đồng tâm” sẽ được phát huy như thế nào trong thời kỳ hội nhập quốc tế?
+ Trong cơ chế thị trường, xã hội có những cái không hay nhưng tôi lúc nào cũng tự hào ở đội ngũ cán bộ công nhân viên ngành Than luôn giữ vững truyền thống “Kỷ luật và Đồng tâm”. Hầu hết anh em đều tin tưởng ở lãnh đạo, tin tưởng ở Tập đoàn. Tình cảm giai cấp, tình đồng nghiệp, đồng chí lúc nào cũng giữ được. Tôi tự hào vì tất cả những điều đó...
- Xin được hỏi thêm ông một câu: Là người rất gắn bó với Quảng Ninh, với ông những mùa xuân ở Vùng mỏ có điều gì khác biệt?
+ Những mùa xuân ở Vùng mỏ với tôi đều rất đặc biệt. Trong gian khổ, tôi luôn tìm thấy những niềm vui, những niềm tự hào. Tôi vui và thấy may mắn đi ra từ nông thôn và có được rất nhiều thứ từ Đất mỏ này. Mỗi mùa xuân đến, tôi đều nhớ về mỏ. Cái niềm vui ở mỏ lắng đọng trong mình, là cái ân tình của đời thợ và vùng mỏ là nguồn động viên tinh thần rất lớn cho tôi. Tôi biết ơn Quảng Ninh, biết ơn người thợ mỏ đã cho tôi tất cả, đã đào tạo bồi dưỡng đưa tôi vào Đảng ở đây, vào Quốc hội cũng ở đây, đi dự Đại hội Đảng từ đây, vào Trung ương v.v.. cũng ở đây cả.
Còn chuyện sâu sắc không quên thì nhiều nhưng nhớ nhất có lẽ là lần gẫy chân ở mỏ Mông Dương cuối năm 1977 phải ngồi nhà 3 tháng trời. Không được xuống với anh em dưới mỏ nhưng tôi không bi quan, vẫn chống nạng đi chỉ đạo công việc...
- Cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này. Chúc ông và gia đình một mùa xuân an vui và hạnh phúc!
Phạm Học (Thực hiện)
Liên kết website
Ý kiến ()