Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 19/04/2024 22:42 (GMT +7)
Bài 1: Áp lực khủng hoảng thừa và mất cân bằng trong sản xuất
Thứ 6, 28/10/2016 | 05:23:06 [GMT +7] A A
Liên tục cắt giảm sản lượng trong 3 năm vì lượng than tồn kho quá lớn đã khiến Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) bị mất cân bằng trong sản xuất và tiêu thụ, đời sống và việc làm của người lao động bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Than tồn kho vượt ngưỡng 10 triệu tấn
Với lượng than tồn kho tăng cao, khoảng gần 11 triệu tấn hiện nay (tương đương 12.500 tỷ đồng) đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc làm, thu nhập và đời sống của trên 80 nghìn lao động ngành Than, ảnh hưởng tới an sinh xã hội, an ninh trật tự đối với Vùng mỏ Quảng Ninh. Từ số báo này, báo Quảng Ninh có những bài đánh giá, làm rõ hơn những nguyên nhân, tồn tại và giải pháp khắc phục tình trạng này. |
Mặc dù TKV đã phải cắt giảm 3 triệu tấn than sản xuất kế hoạch năm 2016, nhưng tính đến hết tháng 9 năm nay, lượng than tồn kho của TKV vẫn xấp xỉ con số 11 triệu tấn. Theo tính toán, lượng than tồn này giá trị tương đương khoảng 12.500 tỷ đồng, điều này đồng nghĩa với việc trên 12.500 tỷ đồng tiền vốn của ngành Than đang nằm “đắp chiếu”, gây mất cân đối trong công tác tài chính và tái đầu tư sản xuất.
Để đảm bảo sản xuất than ổn định, ngày 26-8-2015 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 21/CT-TTg, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị liên quan tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh than. Chỉ thị nêu rõ: Bộ Công Thương phê duyệt biểu đồ cấp than cho sản xuất điện từ nguồn than trong nước do TKV và Tổng Công ty Đông Bắc sản xuất và chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam mua than trong nước cho sản xuất điện từ hai đơn vị này.
Than tồn kho tại khu vực Vành Danh, Uông Bí. |
Trên cơ sở này, Bộ Công Thương dự báo, Việt Nam phải nhập khẩu hơn 3,1 triệu tấn than trong năm 2016, trong đó riêng TKV phải nhập 1 triệu tấn để phục vụ các nhà máy điện của Tập đoàn, số còn lại phục vụ các nhà máy nhiệt điện, luyện thép và xi măng... Tuy nhiên, do thiếu sự quản lý và điều hành chặt chẽ, nên lượng than nhập khẩu đã vượt qua quy hoạch nhu cầu sử dụng than tại Quyết định 403-TTg (ngày 14-3-2016) của Thủ tướng Chính phủ. Theo Quyết định này, năm 2016 cân đối than sản xuất trong nước là 38 triệu tấn, nhập khẩu 5-7 triệu tấn. Nhưng theo số liệu của Tổng cục Hải quan, sản lượng than nhập khẩu chỉ riêng quý I/2016 của các đơn vị đã vượt trên 3 triệu tấn than. Trong 9 tháng năm nay, các đơn vị đã nhập khẩu gần 10 triệu tấn than, chủ yếu phục vụ các nhà máy nhiệt điện, gấp 3 lần so với kế hoạch. Vì thế, lượng than tồn kho của TKV tăng đột biến, phá vỡ kế hoạch sản xuất và tiêu thụ, đẩy ngành Than vào giai đoạn khó khăn nhất trong khoảng 20 năm gần đây.
Trong khi than nhập khẩu không bị hạn chế thì than xuất khẩu của TKV lại bị khống chế bởi hạn ngạch. Những loại than mà TKV đăng ký xuất khẩu đều là các loại than có giá trị cao mà thị trường trong nước không sử dụng (như than đăng ký xuất khẩu đi Nhật Bản). Trước tình hình các kho chứa than đang ở mức quá tải, để giải quyết tồn kho của ngành Than khi cân đối nhu cầu trong nước, Bộ Công Thương đã có văn bản kiến nghị Chính phủ cho phép xuất khẩu để giảm lượng than tồn. Theo đó, Chính phủ đã có văn bản chấp thuận cho TKV xuất khẩu 2 triệu tấn than trong năm 2016. Điều này đã giúp ngành Than giảm tồn kho các loại than chất lượng cao, mang lại giá trị kinh tế cao, tăng doanh thu và mang lại công ăn việc làm cho người lao động. Việc xuất khẩu các loại than cho ngành thép Nhật Bản còn giúp TKV nhận được nhiều sự hỗ trợ từ Chính phủ, các tổ chức kinh tế và ngân hàng Nhật Bản trong việc hỗ trợ tài chính để phát triển mỏ than, đào tạo cán bộ kỹ thuật khai thác, chuyển giao công nghệ khai thác, thăm dò tài nguyên...
Tuy nhiên, việc được phép xuất khẩu 2 triệu tấn than chất lượng tốt trong năm nay sẽ không phải là “chiếc đũa thần kỳ” để TKV vượt qua áp lực tồn kho. Bởi lẽ, việc ký kết các hợp đồng tiêu thụ thông thường đều được thực hiện theo năm và với các bạn hàng truyền thống. Do chính sách hạn chế xuất khẩu than, nên các đối tác chiến lược của TKV đã phải tìm đến các thị trường khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia... Do vậy, việc thực hiện xuất khẩu 2 triệu tấn là rất khó. Theo thống kê của TKV, trong 9 tháng vừa qua, Tập đoàn mới chỉ xuất khẩu được 372.000 tấn than, đạt 31% kế hoạch năm.
Áp lực từ nhiều phía
Hiện ngành Than đang gặp phải một số khó khăn kép trong sản xuất và tiêu thụ. Điều kiện địa chất các vỉa than ngày càng xuống sâu hơn, để sản xuất phải đầu tư nhiều chi phí hơn (duy trì sản xuất, nhân công, bảo vệ môi trường, bảo đảm an toàn lao động...), nhưng chính sách thuế, phí của Nhà nước lại tăng lên (cao hơn chính sách thuế, phí của các nước trong khu vực như Trung Quốc, Indonesia...), từ đó làm cho giá thành sản xuất than trong nước tăng cao. Trong khi đó, thuế suất của than nhập khẩu là 0%.
Khai thác ngày một xuống sâu là một trong những yếu tố đẩy giá thành sản xuất than lên cao. |
Điều kiện sản xuất của các mỏ hiện nay đã xuống -300m so với mặt nước biển, tỷ lệ than lộ thiên so với than hầm lò chiếm 50-60%. Các mỏ than lộ thiên, hệ số bóc đất đá và cung độ vận chuyển tăng lên, làm cho sức cạnh tranh của than Việt Nam yếu. Giá thành của than trong nước tăng cao còn do mức thuế và phí chiếm 25% giá thành, làm cho sức cạnh tranh của ngành Than càng thêm kém. Từ ngày 1-7-2016, thuế đánh vào than tăng 3% đã làm cho sức cạnh tranh của than sản xuất trong nước rớt xuống tầng đáy. Theo tính toán, hiện giá nhập khẩu than về đến Việt Nam còn thấp hơn giá than bán tại thị trường nội địa gần 100.000 đồng/tấn.
Ông Lê Minh Chuẩn, Chủ tịch HĐTV, cho biết: 9 tháng năm 2016, doanh thu và lợi nhuận của ngành Than bị sụt giảm lớn do nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân chủ yếu do thị trường diễn biến theo hướng bất lợi; điều kiện khai thác đặc thù ngành mỏ ngày càng xuống sâu làm cho chi phí về an toàn môi trường tăng cao, tỷ trọng than hầm lò tăng nhanh. Hiện giá bán khoáng sản gần như chạm đáy, trong khi các loại thuế, phí tăng. Một số hộ tiêu thụ lấy than không đạt sản lượng theo hợp đồng đã ký, như nhiệt điện An Khánh, Vĩnh Tân 1, Vũng Áng 1, các nhà máy sản xuất phân bón, xi măng..., nên sản lượng than tiêu thụ giảm so với cùng kỳ và kế hoạch đã cân đối.
Trong điều kiện khó khăn, giá bán thấp và lượng than tồn vượt ngưỡng đã ảnh hưởng lớn tới cân đối tài chính của TKV. Vì vậy, ngành Than đề xuất được điều chỉnh giảm thuế và phí để tháo gỡ khó khăn; nhiều đề xuất, kiến nghị liên quan đến thực hiện tái cơ cấu, thoái vốn một số lĩnh vực, công tác thăm dò, khảo sát, cấp giấy phép khai thác, thực hiện các dự án... Tuy nhiên, do phải cắt giảm mạnh về sản lượng sản xuất và chi phí để đảm bảo lượng than tồn kho và giá bán sản phẩm, nên nhiều chi phí cho đầu tư phát triển mỏ, cải thiện điều kiện sản xuất, duy trì sản xuất phải cắt giảm dẫn đến nguy cơ không đảm bảo an toàn lao động. Đồng thời, do giảm việc làm dẫn đến nguy cơ thợ lò bỏ việc (đào tạo được 1 thợ lò lành nghề đòi hỏi rất nhiều thời gian và kinh nghiệm công tác). Sản xuất, doanh thu, lợi nhuận bị sụt giảm, TKV không có vốn để đầu tư các dự án mỏ mới (để có được 1 mỏ mới cần ít nhất 5-7 năm thực hiện đầu tư, xây dựng). Nếu khó khăn về tiêu thụ vẫn tiếp tục kéo dài, các mỏ mới theo Quy hoạch không được đầu tư, sẽ có nguy cơ ảnh hưởng đến nguồn than cung cấp cho nhu cầu trong nước sau năm 2020, ảnh hưởng lớn đến chính sách phát triển năng lượng quốc gia theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Vì thế, Nhà nước cần sớm có chính sách phù hợp để giúp TKV có điều kiện đầu tư, phát triển mỏ đúng quy hoạch phát triển ngành Than Việt Nam theo Quyết định 403/QĐ-TTg. Nhà nước cũng cần giữ ổn định mức thuế, phí trong thời gian dài để doanh nghiệp có thể cân đối được hiệu quả các dự án.
Lê Hải
Bài 2: Áp lực việc làm và thu nhập thợ mỏ[links()]
Liên kết website
Ý kiến ()