Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 29/03/2024 02:03 (GMT +7)
Phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển: Cần cú hích lớn
Thứ 2, 08/04/2019 | 13:26:01 [GMT +7] A A
Theo đánh giá của các cơ quan chuyên môn, tiềm năng thế mạnh về cảng biển của Quảng Ninh rất lớn, thậm chí, trong tương lai sẽ là một trong những ngành dịch vụ mũi nhọn, trọng tâm, góp phần tạo nên sự bứt phá mạnh mẽ của Quảng Ninh trong phát triển kinh tế - xã hội. Muốn làm được điều này, Quảng Ninh cần “cú hích” lớn, mang tầm chiến lược cho phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển.
Cảng tàu khách quốc tế Hạ Long được triển khai theo hình thức đối tác công - tư, là một trong những cảng khách hiện đại nhất Việt Nam. Ảnh: Đỗ Phương |
Phát triển nhưng chưa đột phá
Hiện trên toàn tỉnh có 6 khu vực hàng hải bao gồm Vạn Gia - Hải Hà, Mũi Chùa, Cô Tô, Cẩm Phả - Cửa Đối, Hòn Gai và Quảng Yên. Trong đó, chỉ có 5 khu vực hàng hải có hoạt động hàng hải (trừ khu vực hàng hải Cô Tô).
Giai đoạn 2014-2018, sản lượng hàng hóa thông qua hệ thống cảng biển Quảng Ninh đạt 361,4 triệu tấn, tăng trưởng trung bình 21,7%/năm và hành khách đạt 493.121 lượt khách. Tuy nhiên, sự tăng trưởng không ổn định; hệ thống cảng biển và hạ tầng giao thông kết nối đã được tỉnh tập trung thu hút nguồn lực đầu tư, cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển.
Năm 2018, tổng lượng hàng hóa thông qua cảng biển Quảng Ninh đạt 81,8 triệu tấn. Lượng hàng hóa trực tiếp qua cảng đạt 32,3 triệu tấn (chỉ chiếm 39,5%) và chủ yếu thông qua 2 khu bến Cái Lân và Cẩm Phả (chiếm 97,5%), còn lại các bến cảng Mũi Chùa, Vạn Gia chiếm 2,5%.
Hàng hóa chuyển tải được thực hiện tại 3 khu neo đậu với sản lượng hàng hóa chuyển tải năm 2018 đạt 49,5 triệu tấn (chiếm 60,5%). Trong đó, nhiều nhất là khu neo Cẩm Phả với 70 vị trí neo đậu, sản lượng hàng hóa đạt 38,56 triệu tấn (chiếm 78%); khu neo Hạ Long với 30 vị trí neo đậu, sản lượng hàng hóa đạt 10,16 triệu tấn (chiếm 20,5%); khu neo Vạn Gia phục vụ hàng biên mậu, sản lượng hàng hóa đạt 0,77 triệu tấn (chiếm 1,5%).
|
Về dịch vụ cảng biển, trên địa bàn tỉnh hiện có 11 loại dịch vụ thuộc 3 nhóm, bao gồm: Nhóm dịch vụ công (hải quan, cảng vụ, bảo đảm hàng hải); nhóm dịch vụ kinh doanh trực tiếp tại cảng (cung ứng tàu biển, xếp dỡ hàng hóa, lưu kho bãi và cho thuê kho bãi, lai dắt và hỗ trợ kéo tàu biển, đóng mới và sửa chữa tàu biển); nhóm dịch vụ kinh doanh gián tiếp (vận tải biển, đại lý hàng hải, vận tải đa phương thức).
Trong đó, một số dịch vụ nổi bật như: Dịch vụ xếp dỡ hàng hóa tại cảng Cái Lân được trang bị hệ thống xếp dỡ hàng hóa hiện đại trên thế giới với 04 cẩu bờ STS loại Post Panamax (tàu biển có trọng tải lên tới 100.000 DWT); dịch vụ đóng mới và sửa chữa tàu biển tại Nhà máy sửa chữa tàu biển Nosco - Vinalines là nhà máy duy nhất ở miền Bắc có thể tiếp nhận được tàu biển cỡ Panamax; dịch vụ hải quan với hệ thống quản lý hải quan tự động tại cảng biển đã được triển khai tại khu bến Cái Lân từ năm 2017.
Doanh thu dịch vụ cảng biển giai đoạn 2014-2018 đạt khoảng 6.500 tỷ đồng; riêng năm 2018 đạt 1.801 tỷ đồng, tỷ trọng đóng góp giá trị tăng thêm của dịch vụ cảng biển trong GRDP là 0,42%.
Những số liệu trên cho thấy, phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển của Quảng Ninh thời gian qua đã có những chuyển động nhất định, góp phần đem lại sự tăng trưởng cho địa phương. Tuy nhiên, sự phát triển này chưa tạo ra được đột phá.
Sớm ban hành nghị quyết về cảng biển
Trên thực tế, phát triển cảng biển của Quảng Ninh còn thiếu tính chiến lược, các chính sách đột phá ưu tiên phát triển, chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, có tính chuyên nghiệp, công tác quản lý nhà nước đối với hệ thống cảng biển hạn chế. Hệ thống cảng biển Quảng Ninh đã được quy hoạch nhưng chưa được quan tâm, ưu tiên đầu tư phát triển đồng bộ.
Tàu Hyundai Paramount vào làm hàng tại cảng Cái Lân. Ảnh: Đỗ Phương |
Về thương hiệu cảng biển Quảng Ninh cũng chưa được biết nhiều; dịch vụ cảng biển chưa đáp ứng tốt khả năng phục vụ các khách hàng lớn, đặc biệt là các hãng tàu quốc tế. Bên cạnh đó, công tác quản trị và định hướng phát triển của các doanh nghiệp khai thác cảng còn nhiều hạn chế, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cảng biển còn nhỏ lẻ, năng lực cạnh tranh yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng.
Một trong những khó khăn quan trọng trong thúc đẩy phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển đã được tỉnh nhìn nhận và xác định rõ, đó là, tỉnh chưa có nghị quyết riêng về phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển trên địa bàn tỉnh, đặc biệt chưa có chiến lược xây dựng vị thế và thương hiệu cảng biển Quảng Ninh.
Trên cơ sở đó, Quảng Ninh đã xây dựng Đề án phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Mục tiêu Đề án là phát triển dịch vụ cảng biển Quảng Ninh theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, trọng tâm, trọng điểm; từng bước xây dựng thương hiệu “Cảng biển Quảng Ninh xanh và thông minh”; thu hút mọi nguồn lực để đầu tư phát triển, đồng thời đào tạo, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao có tính chuyên nghiệp để phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển...
Về mục tiêu cụ thể, đến năm 2030 sẽ phát triển kết cấu hạ tầng theo hướng nhanh, đồng bộ, hiện đại theo chuẩn quốc tế gắn với các khu kinh tế, khu công nghiệp; tập trung nguồn lực đầu tư các bến cảng tại khu vực tiềm năng; ưu tiên hình thành chuỗi dịch vụ cảng biển gắn liền với hoạt động kinh tế, giao lưu thương mại quốc tế, phát triển tối thiểu 15/20 dịch vụ.
Tổng doanh thu dịch vụ cảng biển đến năm 2025 đạt khoảng 22.000 tỷ đồng, tỷ lệ tăng trưởng trung bình mỗi năm đạt 14,5%; đến năm 2030, tổng doanh thu dịch vụ cảng biển đạt khoảng 33.000 tỷ đồng, tỷ lệ tăng trưởng trung bình mỗi năm đạt 12,5%.
Để Đề án khi đi vào thực hiện đảm bảo đúng mục tiêu, định hướng và mang tầm chiến lược dài hạn, thời gian qua, tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn tích cực vào cuộc, tham vấn ý kiến của các chuyên gia kinh tế, đơn vị tư vấn nhằm hoàn chỉnh Đề án. Bản Đề án cũng đã được Thường trực Tỉnh ủy, Ban cán sự Đảng UBND tỉnh nghe và cho ý kiến, yêu cầu chỉnh sửa hoàn thiện.
Mới đây, ngày 5/4, tại Kỳ họp thứ 32, BCH Đảng bộ tỉnh khoá XIV cũng đã nghe và cho ý kiến về Đề án và dự thảo Nghị quyết chuyên đề về phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển trên địa bàn tỉnh đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030. Hy vọng, trong thời gian sớm nhất, Nghị quyết được ban hành. Đây chắc chắn sẽ là “cú hích” lớn cho phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển của Quảng Ninh.
Hồng Nhung
[links()]
Liên kết website
Ý kiến ()