Tất cả chuyên mục
Thứ Bảy, 20/04/2024 07:06 (GMT +7)
"Mong muốn ngày càng có nhiều sáng kiến, giải pháp mới hiệu quả"
Chủ nhật, 19/02/2017 | 12:40:09 [GMT +7] A A
Là “cây sáng kiến”, từng là Chủ nhiệm Câu lạc bộ sáng tạo trẻ của Công ty CP Than Hà Lầm (TP Hạ Long), kỹ sư Phạm Văn Thắng (sinh năm 1982) cùng đồng nghiệp luôn say mê tìm tòi các giải pháp mới, ứng dụng KHCN nhằm tăng năng suất, cải thiện điều kiện lao động cho công nhân. Một trong những sản phẩm đó là công trình “Nghiên cứu lò chợ cơ giới hoá đồng bộ công suất 600.000 tấn/năm” tại vỉa 11 để nâng cao năng suất khai thác tại Công ty CP Than Hà Lầm - Vinacomin do anh là nhóm trưởng. Sáng kiến đã làm lợi cho Công ty khoảng 12 tỷ đồng/năm và đã đạt giải thưởng tại Festival “Sáng tạo trẻ” toàn quốc lần thứ IX - năm 2016.
Kỹ sư Phạm Văn Thắng giới thiệu về mô hình “Hệ thống lò chợ cơ giới hoá đồng bộ công suất 600.000 tấn/năm” |
Chàng kỹ sư trẻ sinh ra ở Nam Định tâm sự: Không phải quê ở Quảng Ninh, không phải người con đất mỏ nhưng tôi lại đi theo nghiệp khai thác mỏ. Nghĩ lại đó cũng là cả một quá trình dài, sự quyết tâm theo đuổi, sự say mê và kiên định với ý tưởng của mình. Đất mỏ đã đưa lại cho tôi công việc, thoả mãn sự say mê, phát huy được những kiến thức đã học, cho tôi một con đường đi của chính mình. Hơn hết, từ những ngày đầu, Công ty luôn trọng dụng và đối xử tốt với những người được học hành, đào tạo tốt nên những kỹ sư trẻ như chúng tôi đã nỗ lực hết mình...
Lò chợ cơ giới hoá đồng bộ là công nghệ hoàn toàn mới. Ở Việt Nam, Than Hà Lầm là đơn vị đầu tiên đưa công nghệ này vào sản xuất. Cùng với khó khăn về diện khai thác xuống sâu, điều kiện địa chất mỏ than Hà Lầm khá phức tạp với nhiều phay phá, đá kẹp chia cắt vỉa cũng như việc đồng bộ cơ giới hoá chưa tốt. Vì vậy, nhóm nghiên cứu phải mất khá nhiều thời gian xử lý các vấn đề kỹ thuật để đảm bảo hoàn thành việc lắp đặt và vận hành thử nghiệm công trình
- Vậy cơ duyên nào đã đưa anh tới ngành mỏ, tới than Hà Lầm?
Kỹ sư Phạm Văn Thắng. |
+ Tốt nghiệp cấp 3, tôi đi học Đại học Mỏ địa chất, chọn ngành khai thác mỏ nhưng không phải ngẫu nhiên mà tôi chọn ngành học này. Với suy nghĩ đất nước ngày một phát triển, ngành năng lượng sẽ rất quan trọng, nên tôi đã chọn ngành khai thác mỏ. Ra trường, tôi ra Quảng Ninh tìm việc và được giới thiệu về làm việc ở Công ty CP Than Hà Lầm và gắn bó với Công ty đến nay.
- Lý do nào để anh say mê sáng tạo, ứng dụng KHCN vào công việc khai thác mỏ?
+ Tới nay, tôi đã có hơn 9 năm làm việc ở Than Hà Lầm, trong đó một thời gian dài, vô cùng bổ ích làm ở công trường, lăn lộn với những đường lò, tôi thấu hiểu sự vất vả, gian nan của người thợ lò để làm ra “vàng đen” cho Tổ quốc. Từng tấn than đều thấm đẫm mồ hôi, thậm chí cả máu của người thợ lò. Chính vì thế, sau khi được lên làm việc tại Phòng kỹ thuật mỏ Công ty, tôi vẫn không quên thói quen đi lò. Và mỗi tuần tôi đều xin đi, “nằm” ở những vị trí khác nhau. Được lãnh đạo Công ty tạo mọi điều kiện phát huy năng lực, tôi tự thấy và tự ý thức được rằng luôn phải nỗ lực cố gắng phấn đấu đóng góp một phần sức lực nhỏ bé của mình vào công cuộc đổi mới công nghệ để xứng đáng với những tình cảm mà mảnh đất và con người nơi đây đã dành cho tôi.
Là những người đi sau nên chúng tôi nhận thấy nhược điểm của hệ thống khai thác theo công nghệ cũ mất rất nhiều nhân lực, thời gian mà năng suất lại không cao. Qua bao trăn trở, tìm tòi và nghiên cứu khoa học của một tập thể, “Hệ thống lò chợ cơ giới hoá đồng bộ công suất 600.000 tấn/năm” đã được triển khai và đi vào hoạt động thành công. Sáng kiến này cũng xuất phát chính từ sự đúc kết kinh nghiệm của bản thân, quá trình làm việc trong hầm lò, sự nghiên cứu kỹ càng thực địa khai thác tại Công ty. Cùng với đó là sự tham khảo thực tế khai thác tại các đơn vị khác có cùng công nghệ trong tập đoàn và ở nước ngoài.
- Quá trình đưa sáng kiến ứng dụng hệ thống máy khấu vào khai thác, tăng năng suất lao động, cải thiện môi trường làm việc, làm lợi cho Công ty, cụ thể như thế nào?
+ Tổng thời gian để nghiên cứu và ứng dụng thành công bước đầu của “Hệ thống lò chợ cơ giới hoá công suất 600.000 tấn than/năm” là hơn 5 năm. Trong đó, từ năm 2010 đến cuối năm 2013, anh em kỹ thuật chúng tôi tập trung tìm hiểu về thực tế khai trường, kết hợp với việc nghiên cứu tìm ra những nhược điểm của hệ thống công nghệ cũ đang sử dụng để khắc phục. Từ những kiến thức đã học trong trường, với những kinh nghiệm thực tế của bản thân nên chúng tôi đã tìm ra được phương án thay đổi công nghệ, góp phần tăng năng suất lao động. Từ cuối năm 2013 - đầu năm 2015 là giai đoạn nước rút, khi được lãnh đạo Công ty ủng hộ, chúng tôi tiến hành trao đổi bàn bạc với nhà sản xuất để tìm ra phương án chế tạo thiết bị tối ưu nhất.
Như anh biết, chúng tôi không phải là người sản xuất hệ thống công nghệ trên, nhưng qua quá trình sử dụng nhận thấy những điểm chưa phù hợp với thực tế tại đơn vị nên đưa sáng kiến thay đổi. Có thể nói, đây sẽ là bước quan trọng nhất vì cả hai bên sẽ phải thảo luận để làm sao hệ thống công nghệ cuối cùng phải đạt được những hiệu quả tốt nhất. Dưới sự cố gắng không mệt mỏi của anh em kỹ thuật chúng tôi thì đến tháng 3-2015 “Hệ thống lò chợ cơ giới hoá” đã được đưa vào lắp đặt chạy thử thành công tại Công ty Than Hà Lầm. Hệ thống công nghệ mới bao gồm 80 giàn với chiều dài 8m bao gồm máy khoan, giàn chống, máy cào, băng tải, trạm bơm dịch và thiết bị điện, tổng trọng lượng ước tính hơn 3.000 tấn. Có thể nói, ứng dụng thành công kỹ thuật mới vào khai thác hầm lò như trên là sự nỗ lực cố gắng không chỉ của riêng anh em kỹ thuật chúng tôi mà là của cả tập thể cán bộ, nhân viên và sự ủng hộ của Ban lãnh đạo Công ty.
- Trong quá trình đó anh và các cộng sự gặp những khó khăn gì?
+ Quả thật, anh em chúng tôi đã gặp muôn vàn khó khăn và áp lực trong quá trình nghiên cứu, tìm tòi và sáng tạo. Chúng tôi hiểu rằng đằng sau mình là bao ánh mắt dõi theo, là sự kỳ vọng của Ban lãnh đạo và hàng nghìn người lao động trong Công ty. Chính vì thế, chỉ cần sai sót một thông số kỹ thuật nhỏ thì sự ảnh hưởng của nó sẽ vô cùng to lớn. Đầu tiên là thiệt hại vật chất cho toàn Công ty, sau nữa sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng than khai thác. Ban đầu, chúng tôi phải khảo sát thực tế hàng năm trời tại khai trường trong mọi điều kiện của thời tiết, nghiên cứu kỹ thực địa, địa chất của mỏ để đưa ra những tính toán chính xác nhất. Tiếp đến là giám sát chặt chẽ cùng nhà sản xuất trong quá trình chế tạo để tránh mọi rủi ro. Cho đến khi tất cả hệ thống thiết bị được đưa vào lắp đặt chạy thử thì anh em chúng tôi vẫn phải chia nhau kiểm tra chặt chẽ mọi hoạt động của thiết bị để kịp thời khắc phục những lỗi không mong muốn.
- Cảm xúc của anh em như thế nào khi hệ thống hoạt động tốt?
+ Quả thật lo lắng, hồi hộp lắm chứ anh! (cười). Đó là công sức, tâm huyết, sự “cởi bỏ” được những vất vả cho thợ lò và hơn hết là niềm tin của nhiều người đặt vào chúng tôi. Sau thời gian lắp đặt và chạy thử thì tháng 6-2015, tôi và các cộng sự mừng rơi nước mắt! (cười). Tấn than đầu tiên ra lò đánh dấu sự thành công bước đầu của hệ thống. Chúng tôi vỡ oà, sung sướng, ôm chầm nhau cùng khóc!. Bao nhiêu vất vả, trăn trở và lo lắng cuối cùng cũng được đền đáp xứng đáng. Đây là một bước đi tiên phong trong việc đột phá thay đổi công nghệ khai thác hầm lò, đánh dấu một chặng đường phát triển mới của ngành than nói chung và than Hà Lầm nói riêng. Và chúng tôi cảm thấy thật hạnh phúc và vinh dự khi được đóng góp một phần sức lực và sự sáng tạo cho công cuộc đổi mới của Công ty và ngành Than.
- Ưu điểm lớn nhất của hệ thống mới này là gì?
+ Hệ thống công nghệ mới mà chúng tôi đưa vào áp dụng thành công đã giúp tiết kiệm chi phí sản xuất cho Công ty và giảm tải nguồn nhân lực làm việc trong hầm lò tối đa. Nôm na như thế này nhé: Nếu trước kia việc khai thác than chủ yếu bằng phương pháp thủ công, thao tác như khoan nổ mìn vẫn được tiến hành bằng sức người. Ví dụ, trước tổng thời gian để khấu xong 8m lò mất 2 ngày với khoảng 50 nhân công làm việc liên tục trong mỗi ca sản xuất. Nhưng từ khi áp dụng hệ thống công nghệ mới giảm tối đa nguồn nhân lực xuống còn 10 người thực hiện cùng một lượng công việc. Nay, tất cả thao tác lúc này đều được thực hiện trên bảng điều khiển, 3 công nhân vận hành máy khấu, 3 công nhân di giàn một ngày đã khấu được 3 đến 5 luồng... Năng suất lao động tăng lên từ 4 đến 5 lần. Về hiệu quả kinh tế, việc áp dụng lò chợ cơ giới hoá đồng bộ đã giúp làm lợi cho đơn vị khoảng 12 tỷ đồng/năm so với công nghệ truyền thống, số lượng nhân lực sử dụng chỉ bằng 1/5 so với trước.
- Mong muốn và dự định của anh trong tương lai là gì?
+ Là những người làm kỹ thuật, chúng tôi sẽ tiếp tục tìm tòi nghiên cứu cải tiến công nghệ, đưa ra nhiều giải pháp để cải tiến kỹ thuật, làm lợi cho Công ty, cho người lao động. Chúng tôi cũng mong muốn nhân rộng phong trào, thúc đẩy phong trào sáng tạo trong Công ty, để ngày càng có nhiều sáng kiến, giải pháp mới hiệu quả.
- Xin cảm ơn anh về cuộc trò chuyện này!
Tạ Quân (Thực hiện)
Liên kết website
Ý kiến ()