Tất cả chuyên mục
Thứ Bảy, 20/04/2024 18:00 (GMT +7)
Quản lý, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật - Bài 1: Thực trạng ở Quảng Ninh
Thứ 4, 25/05/2016 | 06:24:43 [GMT +7] A A
Theo thống kê của Tổ chức Lương thực Thế giới (FAO), hàng năm, thiệt hại mùa màng do sâu, bệnh gây ra trung bình mất khoảng 20-30% tổng sản lượng. Chính vì vậy, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) đã trở thành một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để phòng, trừ dịch hại. Tuy nhiên, thuốc BVTV là những hợp chất hữu cơ độc hại, đứng đầu danh sách 12 loại độc nguy hiểm và là một trong những tác nhân chính gây ung thư. Vì vậy, vấn đề quản lý sử dụng thuốc BVTV như thế nào để đảm bảo an toàn cho người sản xuất và người sử dụng đang là vấn đề được các cơ quan quản lý và người dân quan tâm.
Hầu hết các bể chứa vỏ, bao bì thuốc BVTV trên đồng ruộng xã Hồng Phong (TX Đông Triều) đều chứa lẫn cả rác thải sinh hoạt. |
Tại Quảng Ninh, mỗi năm, số thuốc BVTV trong sản xuất nông nghiệp là trên 200 tấn. Con số này khá thấp so với các địa phương khác vì Quảng Ninh không phải là vùng trọng điểm trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, việc quản lý kinh doanh, sử dụng thuốc BVTV trên địa bàn tỉnh vẫn có nhiều bất cập cần được khắc phục.
Nguy cơ ô nhiễm từ những cái bể...
Xuất phát từ mục đích tránh tình trạng vỏ, bao bì thuốc BVTV sau khi sử dụng bị bỏ lại bừa bãi trên đồng ruộng, từ năm 2011 đến 2015, nhiều địa phương trong tỉnh đã huy động nhiều nguồn kinh phí xây dựng, lắp đặt các bể chứa vỏ, bao bì thuốc BVTV. Tính đến thời điểm này, toàn tỉnh đang có 821 bể, trong đó nhiều nhất là TX Đông Triều (607 bể), kế đến là huyện Hải Hà (134 bể), TX Quảng Yên (30 bể), TP Hạ Long (30 bể)… Tuy nhiên, qua kiểm tra cho thấy duy chỉ có 30 bể của TP Hạ Long đáp ứng được các tiêu chí là bể chứa vỏ, bao bì thuốc BVTV, còn 791 bể còn lại đều không đạt chuẩn (mục 7, điều 4, thông tư 51/2014/TT-BNN&PTNT quy định bể chưa vỏ, bao bì thuốc BVTV phải kín, có đáy, nắp đậy, tránh tình trạng nước mưa chảy vào). Theo phân tích của Sở NN&PTNT, toàn bộ 791 bể đều được xây lắp từ việc trưng dụng các bi cống, không nắp đậy, không đáy hoặc có nhưng lại đục lỗ, diện tích bể nhỏ… Chính bởi vậy các bể này chứa được lượng vỏ bao bì thuốc BVTV không lớn, lại dễ bị người dân bỏ lẫn với rác thải sinh hoạt và quan trọng hơn khi gặp trời mưa vẫn ngấm, hoà tan thuốc và ngấm lượng thuốc BVTV còn sót lại xuống đất, ảnh hưởng tới nguồn nước ngầm, nước mặt, chất đất... Như vậy, có thể nói thực chất các bể này mới chỉ có tác dụng như chiếc thùng đựng rác chứ không phải là công cụ ngăn ngừa tác hại của thuốc BVTV tác động tới môi trường. Điều này là khá nguy hại bởi theo tính toán của giới chuyên môn, mỗi năm toàn tỉnh Quảng Ninh phải sử dụng đến 200 tấn thuốc BVTV (cả cây lâm, nông nghiệp), trong đó lượng vỏ, bao bì chiếm 10%, tức khoảng 2 tấn. Điều đáng nói, các vỏ bao bì này đều chứa lượng thuốc BVTV còn sót lại, ước tính tối thiểu chiếm 2%, tức khoảng 2 tạ thuốc BVTV, với 2 tạ thuốc BVTV này khi hoà tan và ngấm trực tiếp xuống nguồn nước, đất canh tác, chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả canh tác cũng như sức khoẻ con người.
Quản lý còn lơi lỏng
Theo thống kê của Sở NN&PTNT, hiện nay trên địa bàn toàn tỉnh có 201 cơ sở buôn bán thuốc BVTV nhưng chỉ có 158 cơ sở được cơ quan quản lý nhà nước cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện bán, 43 cơ sở còn lại chưa được cấp. Chưa kể, thuốc BVTV còn được bán tràn lan tại nhà riêng hoặc tại các chợ, nhất là các phiên chợ ở khu vực miền Đông giáp biên giới như: Bình Liêu, Móng Cái, Hải Hà… Như vậy, con số cơ sở đang bán thuốc BVTV nhưng không có giấy chứng nhận đủ điều kiện bán trên toàn tỉnh ước lên đến hàng trăm, trong khi đó đây là loại hình kinh doanh có điều kiện. Điều đáng nói là những cơ sở này bán hàng công khai và có rất nhiều sai phạm trong kinh doanh thuốc BVTV. Một số cơ sở bán thức ăn chăn nuôi gia súc bán kèm thuốc BVTV mà không có nhà kho kín để riêng, không có danh mục thuốc, không có niêm yết giá, người bán không có chứng chỉ chuyên môn về lĩnh vực trồng trọt và BVTV. Đơn cử như trường hợp của đại lý Luyện Nga, phường Phương Đông (TP Uông Bí). Còn ở huyện Bình Liêu, một số cư dân biên giới khi sang lao động ở Trung Quốc, dù là không có chuyên môn về thuốc BVTV song vẫn mua thuốc BVTV về để bán ở các phiên chợ vùng cao theo hình thức “buôn thúng, bán mẹt”, dễ mua, dễ bán như hàng xén.
Điều đáng nói là hiện trên địa bàn tỉnh có khá nhiều trường hợp như của đại lý Luyện Nga và các đối tượng “buôn thúng, bán mẹt” như ở huyện Bình Liêu nói trên. Thực tế việc tồn tại các cơ sở, tiểu thương bán thuốc BVTV trái phép như trên sẽ dẫn đến rất nhiều hệ lụy. Bởi khi những người trực tiếp bán thuốc nhưng không có trình độ chuyên môn sẽ dễ xảy ra tình trạng tư vấn không chính xác loại thuốc, thời điểm phun thuốc, liều lượng và kỹ thuật phun thuốc cho người mua. Không những thế, nhiều người dân khi hỏi mua thuốc này nhưng nếu hết hoặc không có hàng, chủ cửa hàng sẽ tư vấn mua sang loại thuốc khác. Điều này có thể khiến cho hiệu quả thuốc kém, hoặc không phát huy được tác dụng, nhiều bà con nông dân thấy sâu bệnh không chết bèn tự ý tăng liều lượng và phun một cách tràn lan. Việc lạm dụng thuốc BVTV không những gây ô nhiễm môi trường, làm tăng chi phí sản xuất của người dân mà còn tiềm ẩn nhiều nguy hại đến sức khoẻ người sử dụng.
Những “hạt sạn” trong công tác quản lý, sử dụng thuốc BVTV nói trên đã và đang có tác động xấu, do vậy rất cần được khắc phục nhằm tránh nhưng hậu quả đáng tiếc sau này.
Việt Hoa - Hoàng Nga
Bài 2: Để giải bài toán khó
Liên kết website
Ý kiến ()