Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 19/04/2024 18:29 (GMT +7)
Quy hoạch, quản lý khai thác khoáng sản để bảo vệ môi trường bền vững
Thứ 5, 10/03/2016 | 13:30:09 [GMT +7] A A
Quảng Ninh sở hữu một lượng lớn khoáng sản về chủng loại và trữ lượng. Ngành công nghiệp khai khoáng đã hình thành và đóng góp không nhỏ vào sự phát triển chung của tỉnh, nhưng cũng là ngành công nghiệp gây ảnh hưởng xấu đến môi trường nhất. Hiện nay tỉnh đang tích cực quy hoạch, bảo vệ vùng khoáng sản, cải tạo môi trường các khu vực khai thác lộ thiên, lộ vỉa... trên quan điểm phát triển kinh tế gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường, đảm bảo phát triển bền vững.
Công ty TNHH MTV 397 - Tổng Công ty Đông Bắc - thực hiện cải tạo Dự án hồ Cầu Cuốn, xã Yên Thọ (TX Đông Triều). |
Là một trong số ít địa phương có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng như than, đá vôi, đất sét, cát… với trữ lượng lớn. Lợi thế này đã tạo điều kiện cho ngành công nghiệp khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh ngày càng phát triển với 243 mỏ và điểm quặng của 33 loại khoáng sản thuộc 6 nhóm khác nhau. Hàng năm sản lượng khai thác khoáng sản phục vụ sản xuất công nghiệp của tỉnh đều tương đối lớn. Sản lượng khai thác đá vôi xi măng khoảng 4,2 triệu tấn; đá xây dựng 2,5 triệu m3; sét gạch ngói 1,3 triệu m3; than đạt trên 44 triệu tấn. Với sự phát triển nhanh của ngành công nghiệp khai khoáng đã gia tăng sức ép về môi trường. Ngoài nguy cơ đe doạ đến trữ lượng nguồn khoáng sản, hoạt động khai thác và chế biến còn tạo ra ô nhiễm khói bụi, tiếng ồn, khí độc, khí nổ và chất thải ở khu vực khai thác cũng như các địa điểm lân cận. Một số khu vực ở Cẩm Phả, Uông Bí, Mạo Khê, Hạ Long, người dân đang phải đối mặt với việc sống chung với bụi, ô nhiễm nguồn nước và nguy cơ cạn kiệt sinh thái. Điển hình đã có thời gian hầu hết các hồ thuỷ lợi ở Đông Triều như hồ Nội Hoàng, Cầu Cuốn, Cổ Lễ, Khe Ươn 1, 2, Rộc Chày… bị chua hoá, mất nguồn sinh thuỷ làm ảnh hưởng đến chất lượng nước phục vụ nông nghiệp.
Trước thực tế trên, Quảng Ninh xác định phải phát triển kinh tế song hành với bảo vệ tài nguyên môi trường một cách bền vững. Với định hướng này, tỉnh đã triển khai xây dựng hàng loạt quy hoạch như Quy hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030; Quy hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường và khoáng sản phân tán nhỏ lẻ đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030… Đặc biệt, mới đây UBND tỉnh đã phê duyệt quy hoạch vùng cấm hoạt động khai thác khoáng sản, khu vực tạm thời cấm hoạt động khoáng sản trên địa bàn. Theo đó, duy trì 5 khu vực cấm và 4 khu vực hạn chế hoạt động khoáng sản than theo văn bản số 491 ngày 13-5-2002 của Thủ tướng Chính phủ, đồng thời bổ sung thêm 17 khu vực khoanh định cấm hoạt động khoáng sản với tổng diện tích trên 181.000ha, khoanh định 3 khu vực tạm thời cấm hoạt động khoáng sản với tổng diện tích gần 40.000ha.
Bên cạnh đó, tỉnh đang thực hiện hàng loạt biện pháp nhằm lập lại trật tự, giải toả bến bãi chế biến, tiêu thụ than trái phép và quy hoạch đường vận chuyển, cảng bến xuất than. Ngoài ra, ngành Than cũng đang tập trung nguồn lực cải tạo, phục hồi môi trường tại các khu vực khai thác lộ thiên, lộ vỉa. Đến nay Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam đã cải tạo, phục hồi môi trường được gần 800ha bãi thải với tổng số kinh phí trên 500 tỷ đồng. Một số bãi thải hiện nay đã ổn định, cây phát triển phủ xanh kín như rừng. Còn hoạt động khai thác đá, cát sẽ ưu tiên những doanh nghiệp có công nghệ khai thác, chế biến tiên tiến. Có thể kể đến các dự án thử nghiệm nghiền đá cát kết trong đá thải mỏ than (Hạ Long, Cẩm Phả), thau rửa cát nước lợ (Hải Hà) làm cát xây dựng nếu sản phẩm đạt tiêu chuẩn (kích thước cỡ hạt, cường độ kháng và độ nhiễm mặn). Hiện nhiều doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đều đã có phương án cải tạo phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản, 107 đơn vị cũng đã ký quỹ cải tạo phục hồi môi trường để khắc phục môi trường nếu doanh nghiệp gây ra ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường với tổng số tiền ký quỹ trên 700 tỷ đồng.
Có thể thấy, việc phê duyệt các quy hoạch về quản lý khai thác khoáng sản sẽ là căn cứ pháp lý cho công tác quản lý nhà nước về khoáng sản trên địa bàn; đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài về quản lý và bảo vệ tài nguyên khoáng sản; ngăn chặn xử lý và chấm dứt tình trạng khai thác khoáng sản trái phép. Qua đó, góp phần thực hiện thành công mục tiêu phát triển kinh tế xanh gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ “nâu” sang “xanh” của tỉnh.
Hiểu Trân
Liên kết website
Ý kiến ()