Tất cả chuyên mục
Thứ Năm, 28/03/2024 16:32 (GMT +7)
Tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng NTM bền vững
Thứ 2, 07/07/2014 | 05:46:01 [GMT +7] A A
Để thực hiện thành công bốn mục tiêu trụ cột của chương trình “Nông thôn mới” là: Tăng thu nhập của nông dân; cải thiện môi trường sống; nâng cấp kết cấu hạ tầng; khuyến khích phát triển đời sống tinh thần và quan hệ xã hội ở nông thôn cần phải thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp của tỉnh.
Từ các ngành sản xuất chủ đạo
Đối với ngành trồng trọt cần có bước điều chỉnh tập trung vào một số loại cây trồng như cây ngô, rau, hoa, quả, cây công nghiệp lâu năm, cây dược liệu. Quảng Ninh có nhiều diện tích đất thích hợp với trồng ngô nhất là các huyện miền Đông. Diện tích gieo trồng ngô năm 2013 là 5.838ha, sản lượng ngô 22.300 tấn. Diện tích này có thể tăng gấp đôi. Mặt khác tỉnh ta là tỉnh có nhiều phụ phẩm từ hải sản có thể chế biến thành thức ăn tại chỗ để giảm giá thành. Đồng thời Quảng Ninh là thị trường du lịch lớn với trung bình đón 7 triệu khách một năm, là tỉnh công nghiệp khai khoáng với hàng chục vạn công nhân, theo thống kê hàng năm của Sở Công Thương sản lượng rau, củ của tỉnh đáp ứng 87% nhu cầu, quả các loại đáp ứng 63% nhu cầu. Trồng rau, hoa, quả không chỉ làm thực phẩm mà còn là sản phẩm du lịch nông nghiệp, làng quê vì tạo ra cảnh quan đẹp. Ngoài các loại rau, hoa, quả... thông thường cần chọn rau, hoa, quả cao cấp như: Nấm ăn, nấm dược liệu, hoa lan, thanh long, cam, na, ổi… để sản xuất quy mô lớn. Riêng đối với cây công nghiệp lâu năm nên tập trung vào cây chè nhưng phải cơ cấu lại giống, nhất là giống chè đặc sản đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.
Ở nhiều vùng trên địa bàn tỉnh nông dân đang thực hiện phát triển chăn nuôi theo quy mô tập trung. (Trong ảnh: Mô hình nuôi dê của gia đình anh Nguyễn Đình Giang ở thôn Trại Me, Sơn Dương, huyện Hoành Bồ). Ảnh: Dương Trường |
Đối với ngành chăn nuôi phải tiến tới là ngành sản xuất chính, ở tỉnh ta hiện nay ngành chăn nuôi chiếm 38% giá trị ngành nông nghiệp, tuy cao hơn so với tỷ lệ của Quốc gia nhưng vẫn chưa tạo lập được vị thế là ngành sản xuất chính. Tỉnh ta rất có điều kiện để sản xuất thức ăn tại chỗ vì ngoài việc có diện tích trồng ngô lớn thì nguồn đạm từ các loại phụ phẩm chế biến hải sản rất nhiều đang lãng phí. Chúng ta cũng có điều kiện để ngành chăn nuôi bò sữa phát triển cung cấp sữa tươi cho 1,1 triệu dân của tỉnh và hàng triệu khách du lịch thay vì ta phải sử dụng các loại sữa nhập ngoại.
Là tỉnh rất có lợi thế trong phát triển ngành thuỷ sản, vì vậy phải định hướng ngành này phát triển giữ vai trò mũi nhọn trong kinh tế nông nghiệp của tỉnh. Những năm gần đây, tình hình kinh tế thuỷ sản trên địa bàn tỉnh có bước phát triển khá mạnh như: Sản lượng khai thác đứng thứ 3/10 tỉnh, thành phố có chung ngư trường Vịnh Bắc Bộ; sản lượng nuôi trồng đứng thứ 6/11 tỉnh, thành phố khu vực đồng bằng sông Hồng. So với năm 2000, tăng 3,5 lần, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 6,6%/ năm, chiếm gần 50% giá trị tăng thêm ngành nông - lâm - ngư nghiệp của tỉnh. Vì vậy, cần sớm xây dựng Đề án tổng thể phát triển kinh tế thuỷ sản tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 gắn với điều chỉnh, bổ sung quy hoạch ngành thuỷ sản phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Phát huy lợi thế của Trung tâm Dịch vụ hậu cần nghề cá Bắc Vịnh Bắc Bộ tại huyện Cô Tô.
Với đặc thù của địa bàn có tới 2/3 diện tích đất tự nhiên là đất lâm nghiệp, đây là thế mạnh của tỉnh nhưng hiện nay ngành lâm nghiệp vẫn chưa phát triển đúng với tiềm năng. Hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp, lãng phí tài nguyên đất rừng. Vì vậy, tỉnh cần ưu tiên trồng rừng gỗ lớn gắn với chế biến sâu thay vì việc trồng cây keo và chế biến kiểu băm dăm như hiện nay. Việc trồng rừng sẽ là cơ hội làm giàu cho đồng bào các huyện miền Đông, góp phần làm cho tỉnh ta phát triển xanh, tạo môi trường cho ngành du lịch phát triển. Ngành lâm nghiệp phải hướng tới ngành sản xuất năng lượng tái tạo, ngành công nghiệp năng lượng sinh khối lớn. Phát triển ngành sản xuất lâm nghiệp ngoài gỗ để sản xuất nguyên liệu sinh học nhằm nâng cao hiệu quả đất rừng.
Cơ chế chính sách đủ mạnh
Xét về tiềm năng thì đất lâm nghiệp và đất nuôi trồng thuỷ sản ở tỉnh ta sẽ có khả năng tích tụ cao hơn các loại đất khác, vì thế cần có cơ chế tích tụ cho hai loại đất này. Đồng thời phải tính đến đào tạo nghề cho lao động nông thôn một cách hiệu quả để chuyển dịch lao động sang lao động công nghiệp dịch vụ cho đối tượng không còn đất do tích tụ ruộng đất. Cùng với đó phải hướng đến sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, Quảng Ninh không có nhiều đất nông nghiệp, mặt khác lại là tỉnh có tốc độ đô thị hoá cao vào tốp đầu của cả nước. Trong khi đô thị hoá thì rất nhiều xã chuyển thành phường nhưng người dân sống bằng nghề nông chiếm tỷ lệ cao, điều đó có nghĩa là nông nghiệp đô thị ở tỉnh ta sẽ chiếm một tỷ trọng không nhỏ, vì vậy ở những vùng này phải đưa công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp vừa nâng cao năng suất lao động, vừa bảo vệ môi trường, vừa phát triển du lịch nông nghiệp vốn là một sản phẩm khách châu Âu ưa chuộng hiện nay.
Thực tế đã chứng minh vai trò to lớn của kinh tế hợp tác, vì vậy cần tạo cơ chế để kinh tế hợp tác phát triển. Ở tỉnh ta sự phát triển của kinh tế tập thể chưa mạnh, số lượng, quy mô, chất lượng, hiệu quả hoạt động còn nhiều hạn chế; tỷ lệ HTX hoạt động trung bình và yếu kém còn cao. Vì vậy phải tập trung rà soát lại các hợp tác xã nông nghiệp, đánh giá hiệu quả và có hướng giải quyết không để tình trạng “sống dở chết dở” như hiện nay. Hình thành các HTX mới trên cơ sở phát triển các sản phẩm chủ lực hoặc dịch vụ thế mạnh của mỗi địa phương trong tỉnh. Các HTX này do nông dân góp vốn để làm dịch vụ đầu vào và đầu ra cho các thành viên mà các tổ chức chính trị xã hội khác không thể làm được, vì không có chức năng để thực thi nhiệm vụ này. Ngay cả tổ chức hội, nghiệp đoàn nghề nghiệp cũng không thể làm thay HTX chức năng này vì nó không phải là tổ chức kinh tế.
Bên cạnh đó, cần thực hiện thêm các giải pháp như tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông thôn, hệ thống dịch vụ công cho nông nghiệp cần thay đổi căn bản chức năng, nội dung từ vai trò cung ứng dịch vụ là chính sang chức năng dự báo, điều phối, quản lý, giám sát, đánh giá, hỗ trợ các hoạt động sản xuất nông nghiệp, thị trường, quản lý chất lượng, dịch vụ pháp lý, cạnh tranh thương mại. Đẩy mạnh thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới gắn với đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn. Đổi mới phương thức hỗ trợ sản xuất theo hướng tăng cường hỗ trợ hạ tầng dung chung cho sản xuất, hỗ trợ gián tiếp, giảm hỗ trợ trực tiếp, giảm dần và không thực hiện hỗ trợ sản xuất nhỏ lẻ theo mô hình hộ gia đình.
Trương Công Ngàn (Trưởng ban Xây dựng nông thôn mới tỉnh QN)
Liên kết website
Ý kiến ()