Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 19/04/2024 07:38 (GMT +7)
Cái khó của việc nhân rộng các mô hình kinh tế nông nghiệp
Thứ 7, 26/07/2014 | 05:40:35 [GMT +7] A A
Nhân rộng các mô hình kinh tế trong sản xuất nông nghiệp là việc làm rất cần thiết, góp phần hình thành các vùng sản xuất tập trung, nâng cao thu nhập cho người dân, thúc đẩy kinh tế địa phương, thực hiện thành công chương trình xây dựng nông thôn mới.
Theo báo cáo của Sở NN&PTNT, trong giai đoạn 2009-2013, Quảng Ninh đã triển khai thực hiện 365 mô hình, dự án ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp với tổng kinh phí hỗ trợ gần 100 tỷ đồng. Trong đó, lĩnh vực trồng trọt đã triển khai 149 mô hình, chăn nuôi 88, lâm nghiệp 36, ứng dụng cơ giới hoá 11, thuỷ sản 81 mô hình. Các dự án, mô hình được triển khai thành công đã góp phần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn. Nhiều giống cây trồng, vật nuôi mới chất lượng tốt được đưa vào sản xuất, từng bước hình thành những vùng sản xuất hàng hoá tập trung, qua đó nâng cao thu nhập cho người nông dân, góp phần thúc đẩy kinh tế của địa phương.
Việc chăn nuôi ồ ạt, không có quy hoạch và định hướng cụ thể đã khiến cho người nuôi nhím ở Hoành Bồ một phen lao đao. Trong ảnh: Mô hình nuôi nhím của gia đình ông Triệu Đức Liên, ở thôn Tân Lập, xã Tân Dân (Hoành Bồ). Ảnh: Nguyễn Thanh |
Đơn cử như mô hình nuôi ong lấy mật, được triển khai với quy mô ban đầu 1.580 tổ, đang thực sự phát huy hiệu quả đối với những địa phương có diện tích vườn, rừng tập trung. Đến nay, mô hình đã được phát triển và nhân rộng ở Hoành Bồ, Ba Chẽ, Bình Liêu, Tiên Yên và Đầm Hà với quy mô trên 3.000 tổ, sản lượng mật gần 8.000 lít/năm. Ước tính, người dân chỉ cần đầu tư 700.000-800.000 đồng/thùng có 4-5 cầu, mỗi năm sẽ cho thu hoạch 2 đợt, mỗi đợt 15-20kg mật, thu nhập trên 1 triệu đồng/đàn.
Bên cạnh đó, nhiều mô hình khác cũng bước đầu cho hiệu quả kinh tế cao, diện tích sản xuất đang được nhân rộng như: Chăn nuôi lợn Hương ở Cẩm Phả; nuôi chim bồ câu Pháp tại Uông Bí, Quảng Yên, Hạ Long, Cẩm Phả, Móng Cái; trồng hoa lan cao cấp tại Vân Đồn, Cẩm Phả, Ba Chẽ, Uông Bí, Đông Triều, Hạ Long, Hoành Bồ; trồng mía tím ở Đầm Hà, Hải Hà, Ba Chẽ; trồng ba kích tím ở Vân Đồn, Cẩm Phả, Ba Chẽ; trồng keo lai ở Đầm Hà, Vân Đồn, Ba Chẽ; nuôi tôm thẻ chân trắng tại Quảng Yên, Hoành Bồ, Đầm Hà, Móng Cái; nuôi cua biển trong rừng ngập mặn tại Quảng Yên...
Từ thực tế cho thấy những hiệu quả và giá trị kinh tế của các mô hình được triển khai trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua. Tuy nhiên, để đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, hình thành các vùng sản xuất tập trung thì việc nhân rộng diện tích sản xuất của các mô hình vẫn còn nhiều cái khó. Nguyên nhân của vấn đề này, đó là từ công tác quy hoạch, quản lý và thực hiện quy hoạch sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp nói chung, quy hoạch vùng, đối tượng sản xuất hàng hoá tập trung nói riêng còn chậm, thiếu sự đầu tư tập trung, trọng tâm, trọng điểm và đồng bộ. Khi triển khai mô hình, các hộ nông dân đều được hỗ trợ về vốn, giống và kỹ thuật, do đó nhiều nông dân tham gia mô hình khuyến nông cốt để được nhận hỗ trợ, sau khi kết thúc chương trình cũng không tiếp tục bỏ vốn để sản xuất. Trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ chuyên môn còn nhiều mặt hạn chế, việc tiếp cận với tiến bộ kỹ thuật mới chưa đầy đủ dẫn đến nhiều khó khăn trong công tác chỉ đạo. Nguồn kinh phí thực hiện các mô hình, dự án phát triển sản xuất nông nghiệp có hạn, trong khi nhu cầu đòi hỏi của sản xuất không ngừng gia tăng, vì vậy các mô hình, dự án còn dàn trải, thiếu tập trung và chưa đủ mạnh để kích thích phát triển sản xuất hàng hoá với quy mô lớn, tập trung, công nghiệp. Đầu ra của sản phẩm không được đảm bảo ổn định nên các mô hình sau khi được nhân rộng, nông sản sản xuất dư thừa rơi vào tình trạng “được mùa mất giá”. Nhìn lại câu chuyện về việc nuôi nhím ở Hoành Bồ cách đây không lâu chính là dẫn chứng cho bài toán về đầu ra của sản phẩm. Nhím được nuôi tại Hoành Bồ bắt đầu từ năm 2003. Ban đầu, được nuôi thử nghiệm ở 4 xã Đồng Sơn, Tân Dân, Đồng Lâm, Hoà Bình với 64 con giống. Đã có lúc, giá một đôi nhím giống lên đến 20 triệu đồng, nhím thịt cũng lên tới cả triệu đồng/kg. Loài nhím dễ nuôi, ít bệnh tật, đầu tư chuồng trại đơn giản nên ngày càng có nhiều người nuôi nhím. Năm 2013, toàn huyện có khoảng 250 hộ nuôi với trên 2.255 con. Nghề nuôi nhím phát triển mạnh mẽ và mang lại hiệu quả kinh tế cao, đã giúp cho người dân không chỉ thoát nghèo mà thậm chí trở thành triệu phú. Tuy nhiên, việc nuôi ồ ạt, không có quy hoạch và định hướng cụ thể đã khiến cho người nuôi nhím phải lao đao tìm thị trường tiêu thụ. Bởi khi thị trường nhím giống còn thiếu thì việc nuôi nhím bán giống rất có hiệu quả song khi nhiều gia đình cùng nuôi, đã tự cung được nguồn giống thì thị trường nhím giống bão hoà. Giá của một đôi nhím giống từ 6-8 triệu đồng, trong khi đó giá nhím thịt cũng chỉ dao động từ 150.000-200.000 đồng/kg.
Một khó khăn khác phải kể đến đó là thị trường giá cả vật tư, con giống, nhiên liệu đầu vào đến đầu ra cho sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản thiếu ổn định, chất lượng không đảm bảo nên tình hình bệnh dịch cho các đối tượng vật nuôi, cây trồng khó kiểm soát. Mối liên kết “4 nhà” chưa thực sự bền chặt, chưa tạo được sự đồng thuận, thống nhất để cùng khai thác các thế mạnh và cùng thụ hưởng những thành quả, lợi ích từ sự liên kết đem lại. Nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh nông nghiệp hiệu quả nhưng khó nhân rộng do chưa có cơ chế hỗ trợ sau mô hình nên chưa tạo được sức hút đối với các doanh nghiệp do hiệu quả đầu tư thấp, bấp bênh so với nhiều ngành nghề sản xuất, kinh doanh khác. Công tác bảo quản, chế biến các sản phẩm nông nghiệp sau thu hoạch còn hạn chế.
Thiết nghĩ, để các mô hình khuyến nông được thực hiện có hiệu quả và ngày càng mở rộng, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ cho cơ cấu cây trồng, vật nuôi thì các ngành chức năng cần có những giải pháp thiết thực để khắc phục những khó khăn, tồn tại hiện nay, đồng thời thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp và người dân.
Cao Quỳnh
Liên kết website
Ý kiến ()