Tất cả chuyên mục
Thứ Bảy, 20/04/2024 15:51 (GMT +7)
Thăm lại “Đồi hạnh phúc”
Thứ 7, 28/01/2012 | 13:04:48 [GMT +7] A A
Vốn là những vùng núi hoang vu, đầm lầy sú vẹt, không người sinh sống, vậy mà chỉ qua một thời gian ngắn, bằng công sức, trí tuệ và tâm huyết của mình, những người lính thuộc Lâm trường 27 (Đoàn KT-QP 327) và sự vào cuộc tích cực của cấp uỷ, chính quyền địa phương, đã làm hồi sinh những vùng “đất chết” hình thành nên những khu phố ngày càng trù phú, góp phần tạo ra những tấm áo giáp vững vàng nơi vùng phên giậu của Tổ quốc...
CBCS Lâm trường 27 chăm sóc rừng bảo vệ vành đai biên giới. |
Đồng chí cán bộ Phòng Chính trị, Đoàn KT-QP 327 (Quân khu 3) tự hào “bật mí” với tôi: “Bây giờ đến thăm những thôn, bản thuộc vùng dự án đơn vị triển khai, chắc chắn nhà báo sẽ phải ngạc nhiên vì sự thay đổi từng ngày ở đây. Nếu như vài năm trước, muốn xuống Lâm trường 27 thì phải đi sớm, vì đường rất khó đi, dân cư thì thưa thớt. Bây giờ thì chỉ mất hơn chục phút đi xe máy là đến nơi, đường cấp phối thuận tiện, điện sáng choang, dân cư đông đúc... Đồng bào nơi đây ngày càng yên tâm gắn bó với quê hương mới”.
Quả thật, khi đến thăm các thôn, bản biên phòng, tôi mới thấy được công sức của những người lính Đoàn KT-QP 327 đã bỏ ra nơi đây lớn như thế nào. Dọc đường vào Lâm trường 27, tôi được chứng kiến cuộc sống sinh hoạt, lao động sản xuất của nhân dân nơi vành đai biên giới thật yên bình; làng xóm trù phú với nhiều ngôi nhà khang trang được xây dựng chẳng thua kém mấy những bản, làng khu vực đồng bằng của tỉnh. Thượng tá Nguyễn Đức Quý, Giám đốc Lâm trường 27 trong bộ quân phục chỉnh tề đón chúng tôi từ cổng đơn vị. Cách đây gần 7 năm, tôi đã có dịp đến đơn vị, người đầu tiên tôi gặp cũng là Thượng tá, Giám đốc Nguyễn Đức Quý, nhưng trong bộ quần áo công nhân, quần xắn móng lợn, mặt mũi lấm lem bùn đất, đang hì hục kéo những mẻ tôm ở dưới đầm, khiến tôi tưởng anh là một nông dân làm thuê. Tôi nhắc lại chuyện này, Thượng tá Nguyễn Đức Quý phá lên cười: “Thú thực, lúc ấy mọi quy trình nuôi thuỷ sản đều đang thử nghiệm, đến mùa thu hoạch mình rất sốt ruột, nên muốn trực tiếp làm để nắm rõ hơn. Bây giờ công việc đã trơn tru, hiệu quả, mình cũng thấy yên tâm hơn và cũng phải thảnh thơi một chút chứ”.
Qua câu chuyện của Giám đốc Lâm trường, tôi phần nào hiểu, để có được những đầm tôm, ruộng lúa và những ngôi nhà khang trang cho nông dân như hiện nay, các anh đã phải trải qua những tháng ngày vô cùng gian nan, vất vả. Lâm trường 27 được thành lập từ năm 1998 làm nhiệm vụ kinh tế - quốc phòng trên địa bàn thôn Lục Lầm, phường Hải Hoà (TP Móng Cái). Trước năm 1979, Lục Lầm là một xã của Móng Cái, diện tích 838ha, có 72 hộ dân với 370 nhân khẩu. Sau nhiều biến động, khiến nơi đây trở nên hoang vắng, không người sinh sống, qua lại. Khi đó người dân ở quanh khu vực gọi Lục Lầm là “đồi ma” với nhiều chuyện ly kỳ liên quan đến cái tên này.
Mô hình nuôi trồng thủy sản thuộc vùng dự án của Lâm trường 27 mang lại hiệu quả kinh tế cao. |
Thượng tá Quý bảo, đến tận bây giờ người dân ở đây cũng không biết cái tên “đồi ma” do ai đặt và có từ bao giờ. Khi anh cùng đơn vị nhận nhiệm vụ đến khai hoang, phục hoá mảnh đất này, chỉ thấy là một quả đồi nhỏ nằm chơ vơ giữa một đầm lầy sú, vẹt, xung quanh là hàng trăm ha đất bãi triều bị bỏ hoang hoá, lau sậy mọc um tùm. Để đến được “đồi ma” chỉ có duy nhất con đường độc đạo. Còn vì sao có tên “đồi ma” thì có nhiều cách giải thích. Có người cho rằng, sau những năm 80 của thế kỷ trước, nơi đây còn sót lại nhiều bom mìn, thỉnh thoảng một vài con trâu, bò bị lạc lối vướng phải bom mìn nổ, xác nằm đó mà không ai dám vào lấy. Chỉ có diều hâu, cú quạ vào ăn xác, bay xao xác cả một vùng. Những đêm tối trời, mưa phùn, ánh lân tinh lập loè khiến nhiều người sợ không dám đến gần, làm cho khu đồi càng trở nên hoang vắng. Người thì cho rằng, trước đây thỉnh thoảng lại có xác chết của người đi biển theo con nước bị trôi dạt vào chân đồi. Còn nhiều chuyện thêu dệt khác nữa, khiến vùng đất này càng trở nên âm u, bí hiểm.
Thế rồi, tất cả bắt đầu đổi khác từ khi CBCS của Lâm trường kéo quân về đây làm nhiệm vụ khai hoang, phục hoá, phát triển kinh tế. Khó thể tả hết được những gian nan, vất vả khi các anh ngày đầu về đây. Lúc ấy, cả khu vực là “4 con số không” tròn trĩnh (không đường, không điện, không nước ngọt, không nhà ở) và khí hậu thì vô cùng khắc nghiệt, muỗi, dĩn nhiều, có những hôm, CBCS của đơn vị phải mắc màn ăn cơm cho khỏi bị đốt. Do điều kiện sinh hoạt thiếu thốn, nhiều CBCS không thích nghi kịp, khiến da vàng ệch, mắt trũng sâu...
Tuy gian khổ là vậy, song phát huy truyền thống Bộ đội Cụ Hồ không chịu khuất phục trước bất cứ khó khăn nào, các anh lại một lần nữa được “thử lửa” với cuộc chiến đấu mới ở nơi đây; đó là tổ chức khai hoang, phục hoá, quy hoạch phát triển sản xuất, quyết tâm vượt qua gian nan, thử thách để làm hồi sinh vùng đất này.
Được sự quan tâm của cấp trên và cấp uỷ, chính quyền địa phương, đơn vị từng bước đầu tư các hạng mục công trình thiết yếu là đường, điện, giếng nước. Qua khảo sát, thấy điều kiện khí hậu, đất đai ở đây rất phù hợp với nuôi tôm, cua, cá, Lâm trường đã phối hợp với các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương quy hoạch thành các vùng phát triển kinh tế. Khi điều kiện cuộc sống tạm thời ổn định, thực hiện chương trình di dãn dân ra biên giới, đơn vị đã tiếp nhận hàng chục hộ dân từ các địa phương ra lập nghiệp. Nhưng đưa dân ra đã khó, để đảm bảo cho cuộc sống của họ còn khó gấp bội phần. Đã có không ít hộ vừa “chân ướt, chân ráo” đến nơi, thấy khó khăn đã bỏ về.
Để người dân yên tâm, gắn bó với quê hương mới, Lâm trường đã xây dựng và thực hiện nhiều phương án sản xuất, từ cấy lúa, trồng hoa màu, chăn nuôi, dịch vụ, đến bốc vác... Nhất là khu vực bãi triều ven biển rất thuận lợi cho nuôi trồng thuỷ sản, ban đầu để tránh rủi ro, đơn vị đã khoanh nuôi thử nghiệm 12,2ha đầm để nuôi tôm hoa và tôm sú. Thành công, đơn vị tiếp tục đầu tư trên 10 tỷ đồng để mở khoanh nuôi thêm trên 200ha. Đến nay, toàn vùng dự án đã có hàng trăm ha nuôi tôm, cua, cá các loại.
Từ năm 2005 đến nay, Lâm trường đã tuyển dụng nhiều trí thức trẻ tình nguyện về làm nhiệm vụ “3 cùng” với nhân dân. Lực lượng này chủ yếu là kỹ sư nông nghiệp, kỹ sư chăn nuôi, thường xuyên bám dân để hướng dẫn cách canh tác, nuôi trồng các loại giống mới, cách phòng trừ dịch bệnh. Những trí thức trẻ là y tá, y sĩ, không chỉ làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ cho bộ đội, mà còn thực hiện tốt mô hình “Quân dân y kết hợp”, thường xuyên khám chữa bệnh cho nhân dân trong vùng dự án. Hình ảnh những trí thức trẻ của đơn vị ngày đêm bên những ruộng lúa, đầm tôm... đã để lại những tình cảm đẹp trong bà con nơi đây.
Thượng tá Nguyễn Văn Quý cho biết: Đến nay, nghề nuôi trồng thuỷ sản trong vùng dự án tương đối ổn định, tạo việc làm, thu nhập cho hàng trăm lao động. Từ một vài hộ gia đình ban đầu, đến nay đã có hàng trăm hộ dân ra Lục Lầm làm kinh tế mới, không có hộ nào cuộc sống thiếu thốn, có nhiều hộ giàu. Cái tên “đồi ma” từ lâu được thay bằng “đồi hạnh phúc”.
Chúng tôi rời Lâm trường 27 khi trời đã xẩm tối. Từ cổng đơn vị nhìn về khu dân cư trên “đồi hạnh phúc”, ánh điện hắt lên sáng rực một vùng rừng núi, xua đi cái rét ngọt đầu xuân. Cây đào ở cổng đơn vị đang khoe những nụ chớm nở, khẽ đung đưa trước gió. Một cuộc sống mới thực sự đã về với nơi đất rừng biên cương này.
Quang Minh
Liên kết website
Ý kiến ()