Tất cả chuyên mục
Thứ Năm, 28/03/2024 22:20 (GMT +7)
Sinh sản nhân tạo sá sùng
Thứ 2, 22/08/2016 | 04:45:58 [GMT +7] A A
Nghề khai thác sá sùng đã trở thành nghề truyền thống ở nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, trong đó tập trung nhiều nhất ở các xã Quan Lạn, Minh Châu, huyện Vân Đồn. Tuy nhiên, do nhu cầu của thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu lớn nên việc khai thác càng mạnh mẽ với nhiều phương pháp mang tính huỷ diệt. Việc khai thác không những làm cạn kiệt nguồn lợi mà còn ảnh hưởng đến vùng nuôi và sự sinh trưởng của các đối tượng khác, ảnh hưởng đến hệ sinh thái ven biển...
Trước thực trạng trên, các đơn vị chức năng của địa phương đã có những biện pháp để bảo vệ nguồn lợi sá sùng như ra quy chế về thời gian khai thác, khoanh vùng cho người dân quản lý, tuyên truyền nâng cao ý thức cộng đồng trong việc khai thác và bảo vệ nguồn lợi... Song song với đó, các nhà khoa học cũng đang tiến hành nghiên cứu phát triển nuôi thương phẩm sá sùng, trong đó sinh sản nhân tạo sá sùng giống là khâu mấu chốt.
Bể xi măng ương nuôi ấu trùng sá sùng tại Trại Thực nghiệm nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, lợ Quảng Ninh, phường Minh Thành, TX Quảng Yên của Trường Cao đẳng Thủy sản (Bắc Ninh). |
Dẫn chúng tôi đến khu vực thí nghiệm sinh sản nhân tạo sá sùng tại Trại Thực nghiệm nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, lợ Quảng Ninh (phường Minh Thành, TX Quảng Yên), Thạc sĩ Nguyễn Văn Tuấn, giảng viên Trường Cao đẳng Thuỷ sản (Bắc Ninh), chủ nhiệm đề tài “Nghiên cứu xây dựng quy trình sinh sản nhân tạo giống sá sùng tại Quảng Ninh” cho biết: Đề tài được thực hiện với mục tiêu là nghiên cứu xây dựng được quy trình kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo sá sùng để chủ động nguồn giống cung cấp cho người nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh và bảo tồn nguồn gen. Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 7-2015 đến tháng 12-2017. Đến thời điểm này, chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, sinh sản của sá sùng tại Vân Đồn. Qua đó đã phân tích về đặc điểm dinh dưỡng, nhận thấy ống tiêu hoá sá sùng có tảo và mùn bã hữu cơ chiếm tỷ lệ 1,66-1,88%; phần còn lại là cát. Còn đặc điểm sinh sản, sá sùng sinh sản tập trung từ tháng 5 đến tháng 9, đồng thời đã phân biệt được đực cái. Cùng với đó, nhóm thực hiện đề tài đã thí nghiệm nuôi vỗ sá sùng bố mẹ và cho sinh sản thành công bằng phương pháp kích thích sốc nhiệt khô, ướt và kích thích dòng chảy. Qua đó, tỷ lệ thụ tinh đạt từ 84-88,5%, tỷ lệ nở từ 89-95%. Đồng thời thực hiện ương ấu trùng trôi nổi và ấu trùng xuống đáy. Ấu trùng sá sùng hiện có kích thước từ 2-5mm. Trong quá trình ương ấu trùng, nhóm thực hiện đề tài đã xác định độ mặn mà sá sùng ương cần là 28 phần nghìn; tỷ lệ sống cao nhất ở mật độ 400 con/lít nước. Đặc biệt, đề tài đã xác định loại thức ăn thích hợp của ấu trùng sá sùng.
Mặc dù sá sùng đã được cho sinh sản nhân tạo thành công nhưng số lượng sá sùng thu được vẫn chưa đạt yêu cầu đề ra. Trong đợt kiểm tra đề tài vừa qua, lãnh đạo Sở KH&CN, Sở NN&PTNT yêu cầu nhóm thực hiện đề tài tiếp tục thực hiện triển khai thí nghiệm ương ấu trùng xuống đáy, triển khai ương ấu trùng cấp 1 lên cấp 2; chuẩn bị ương nuôi sá sùng trong bể xi măng và trên bãi triều; xây dựng dự thảo quy trình kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo sá sùng. Nhóm thực hiện đề tài đang phối hợp với Trung tâm Khoa học kỹ thuật và Sản xuất giống thuỷ sản Quảng Ninh, Vườn Quốc gia Bái Tử Long, Công ty CP Thuỷ sản Anh Quân Thắng Lợi (Vân Đồn) trong việc xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất giống sá sùng. Sau khi đề tài thành công các cơ sở này sẽ được tiếp nhận công nghệ chuyển giao để duy trì sản xuất giống nhân tạo sá sùng, nuôi thương phẩm, qua đó nhân rộng đến người dân trên địa bàn tỉnh.
Thạc sĩ Nguyễn Văn Tuấn, chủ nhiệm đề tài khẳng định, việc sản xuất giống nhân tạo sá sùng thành công sẽ tạo cơ sở cho nghề nuôi sá sùng tại Quảng Ninh và một số tỉnh ven biển khác như Khánh Hoà, Phú Yên, Bà Rịa Vũng Tàu... phát triển. Qua đó tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân ven biển, giảm áp lực khai thác sá sùng tự nhiên và phục vụ cho việc bảo tồn nguồn lợi. Ngoài ra, sá sùng là loài có chuỗi thức ăn ngắn, ăn mùn bã hữu cơ, thân thiện với môi trường nên rất thích hợp khi nuôi ghép với một số loài thuỷ sản khác nhằm giảm thiểu nguy cơ ô nhiễm môi trường ao nuôi.
Nguyễn Hoa
Liên kết website
Ý kiến ()