Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 29/03/2024 06:09 (GMT +7)
Cá niếc
Thứ 5, 11/08/2016 | 15:52:53 [GMT +7] A A
Hồi tuổi chăn trâu, bế em, mình có người bạn tên là Vụ.
Mình hay cõng em xuống nhà nó chơi.
Nhà nó có một cái ao tù giáp bờ tre.
Mỗi năm mùa lũ, nước ngập, cá xuyn xuýt (cá cờ, săn sắt, cá chọi), cá rô ron, cá trê hoẻn theo vào rồi sống ở đó.
Mặc cho em bò lê la cạnh bờ ao, mình với nó câu cá.
Cá xuyn xuýt (cá cờ). |
Lấy sợi tơ tước từ bẹ chuối tiêu, trắng muốt và nhỏ như sợi cước, một đầu buộc vào nhánh tre làm cần, đầu kia buộc một mẩu giun bé xíu, thả xuống.
Đàn cá xuyn xuýt lao đến tranh mồi, nhìn rõ thấy nó nuốt mồi thì nhanh tay giật.
Lên đến bờ ao, nó rơi ra, quẳng ngay cần mà vồ.
Rồi cho vào cái lọ thuỷ tinh đã múc đầy nước ao.
Cá xuyn xuýt rất đẹp. Vảy nó rực màu hồng tía óng ánh. Vây lưng, vây bụng và đuôi, dài, mềm mại, cũng óng ánh muôn hồng ngàn tía.
Nó tung tăng bơi trong lọ. Ngắm không chán mắt.
Nhưng cá rô ron hay anh trê hoẻn đớp mồi, giật, thường tơ chuối bị đứt hoặc chưa kịp lên bờ nó đã nhả mồi, rơi tõm.
Tiếc đứt ruột.
Cá niếc, trông giống loài cá này. |
Rồi chúng mình lấy trộm kim khâu và chỉ của mẹ để chế lưỡi câu và dây câu.
Hồi đó kim, chỉ hiếm lắm. Mất kim chỉ, mẹ kêu la, bảo chỉ có chúng mình lấy, chúng mình cãi bay cãi biến.
Bởi nếu nhận, bố đánh đòn.
Kim khâu cứ để nguyên mà uốn lưỡi câu sẽ bị gãy. Bởi nó rất giòn.
Nhưng hơ qua lửa, nó gần đỏ lên, uốn rất dễ.
Chỉ hơ gần đỏ thôi. Hơ đỏ hẳn kim trở nên mềm, uốn lưỡi câu dễ hơn nhưng khi câu bọn rô, trê mắc vào là lưỡi bị oẻ ra, cá tuột mất, không bắt được.
Chỉ thì se đôi, là được một dây câu chắc hơn nhiều sợi tơ chuối.
Chỉ thương, tiếc cho những con cá bọn mình câu được thả nuôi trong lọ, mặc dù rắc cho chúng ăn cám hẳn hoi cũng chỉ vài hôm là chết hết.
Đến năm mình học cấp 3 ở một trường vừa học vừa làm miền núi, nhân ngày chủ nhật được nghỉ, thằng Khoa, người Mường, bạn mới, cùng học, rủ mình đi câu.
- Ở đâu?
- Ở suối. Trong rừng.
- Nhưng không có cần câu?
- Tớ chuẩn bị rồi.
Lại dây câu là một sợi chỉ se ba và lưỡi câu uốn từ kim khâu. Nó xin kim, chỉ của bọn con gái, bọn cái Dậu, cái Minh cùng lớp.
Con suối về mùa cạn. |
Hồi đó đói lắm. Bọn mình đi rừng là để kiếm cái ăn. Kiếm được, nấu, ăn ngay trong rừng.
Hai đứa mang theo con dao và một nhúm muối.
Mùa thu, nước suối cạn.
Con suối nhỏ, đôi chỗ còn dòng chảy róc rách.
Nhưng có những cái hủm, nước đầy và trong vắt.
Bọn mình thả câu ở những cái hủm đó.
Qua 6 – 7 cái hủm như thế dọc con suối chẳng câu được con gì. Không thấy có cá.
Đã gần trưa.
Dù vậy, vẫn phải kiên trì.
Trời không phụ lòng người.
Đến một cái hủm không to lắm. Bề dài dọc suối chỉ khoảng 2m, bề ngang gần 1m. Sâu chừng 1,2m. Quanh bờ cỏ mọc um tùm, chờm cả ra miệng hủm.
- Hủm này có thể có cá – Khoa nói.
- Sao biết?
- Vì nó có hang hàm ếch. Và cây cối mọc um tùm, tối như thế này cá nó hay ở.
Lá lồm. |
Quả không sai.
Thằng Khoa vừa thả câu xuống, bỗng thấy ở phía hang hàm ếch, một đàn cá lúc nhúc túa ra, bơi sát đáy. Nhìn giống cá nheo hay cá trê.
- Không. Cá niếc đấy – Khoa nói.
- Cá niếc? Lạ nhỉ! Tớ chưa nghe thấy loại cá này.
- Ừ. Cá niếc. Ở suối. Hơi giống cá nheo. Nó là loài cá nhỏ. Con to nhất cũng chỉ gần bằng chuôi dao. Dài khoảng một gang tay.
Chúng chen chúc, xoay tròn quanh miếng mồi.
Khoa giật. Một con mắc câu.
Nó túm lấy con cá, gỡ ra, bấm đuôi rồi lại thả xuống.
- Sao làm thế? – Tôi thắc mắc.
- Rồi sẽ biết.
Đàn cá thật háu ăn. Nhìn chúng xúm vào tranh mồi thật sướng.
Khoa giật liên tục. Một lúc, được 13 con.
Đến con thứ 14, Khoa gỡ cá ra và bảo: Đến con này là hết rồi!
- Sao biết?
- Thì, đến con cá mình đã cấu đuôi. Con cá này đã mắc câu một lần, lại bị cấu đuôi, nó sợ, cứ lảng vảng vòng ngoài không dám tranh ăn hăng hái như những con khác. Đến khi nó dám ăn lại, nó sẽ là con cuối cùng.
Tôi nhìn xuống hủm, quả nhiên, không thấy còn con cá nào. Hủm nước trong vắt, lại lặng như tờ.
Lam, một lối làm chín thức ăn phổ biến của người dân tộc miền núi phía Bắc. |
Chúng tôi rời suối, xách theo xâu cá, tiến đến khu rừng cạnh đồi sắn rộng mênh mông, là cái đích tiếp theo.
Đồi sắn rộng hơn 50ha, là do chúng tôi trồng.
Cữ cuối tháng tám âm này, củ sắn đã to hơn ngón chân cái.
Chúng tôi chui vào đồi sắn, lần tìm những cây sắn mà đất ở cạnh gốc có đường nứt nẻ kéo dài, bới ra, một củ sắn nằm chềnh ềnh ngay dưới đường nứt ấy.
Thằng Khoa bập dao cắt đứt đầu củ rồi rút nó lên, xong vùi đất lại như cũ, để xoá dấu vết.
Lấy khoảng hơn 3kg củ sắn.
Bên bờ một con suối khác, giữa rừng nứa đan thuyền đang rì rào trong gió, tiếng chim rừng âm vang đó đây.
Chúng tôi làm sạch cá, trộn chúng với muối, vài quả ớt chỉ thiên băm nhỏ và lá lồm (một loại lá rừng vị chua, còn có tên khác là lá vón vén, lá giang), đút vào một ống nứa đan thuyền còn non. Lấy lá rừng vo tròn nút chặt lại.
Sắn cũng bóc rửa sạch, cho vào đầy hai ống nứa khác.
Rồi tất cả, kê nghiêng vào gờ một hòn đá tảng, gom nứa khô lại chất xung quanh, châm lửa đốt.
Sắn. |
Các ống nứa bị đốt, hơi phì phì phun ra, ở miệng ống, dù đã được nút chặt; nước ở mình ống cũng ứa ra. Nó dần teo tóp lại. Rồi phía ngoài cháy đen. Cũng là lúc thức ăn chín.
Chúng tôi dóc ống nứa, banh ra, dùng đôi đũa vót vội, gắp và đánh chén.
Thức ăn nóng hổi. Ngon kỳ lạ!
No, quá no mà không hết. Vẫn còn 1 ống sắn nguyên.
Không lo. Ống sắn thừa là thứ dự trữ.
Chúng tôi đem về giấu ở bụi rậm gần nhà, tối lại nháy nhau ra ăn tiếp.
Ngon hơn nhiều thứ ngô xay nấu vừa khê, vừa sống sít của nhà bếp cho ăn buổi chiều.
Tôi bảo với Khoa:
- Này, lúc nào lại đi câu chứ?
Khoa:
- Ừ. Rừng. Cứ đi. Không câu thì ta kiếm cái khác. Còn nhiều thứ ăn được ở rừng lắm…
Thịt trâu lá lồm, món ăn nổi tiếng của người Mường. |
Trần Giang Nam
Liên kết website
Ý kiến ()