Tất cả chuyên mục
Thứ Ba, 19/03/2024 14:59 (GMT +7)
Bảo tồn Vịnh Hạ Long đã thành tiềm thức của người xưa
Chủ nhật, 07/10/2012 | 09:06:29 [GMT +7] A A
Vịnh Hạ Long tồn tại suốt bốn nghìn năm trong lòng dân tộc, cho đến trước ngày giải phóng Vùng mỏ (1955), không tìm thấy bất kỳ một chiếu chỉ nào của nhà vua, một quy chế, quy định cụ thể nào của quan đầu tỉnh về bảo tồn Vịnh Hạ Long…
Vậy ông cha ta đã vận dụng giải pháp “thần diệu” nào để bảo tồn Vịnh Hạ Long hiệu quả đến như vậy trong suốt bốn nghìn năm lịch sử?
Đó là hình thành ý thức, trở thành tiềm thức của cả cộng đồng cư dân sống trên Vịnh Hạ Long, được truyền từ đời này qua đời khác, rằng giữ gìn, bảo vệ Vịnh Hạ Long là giữ gìn, bảo vệ những điều thiêng liêng, là giữ gìn, bảo vệ cuộc sống tinh thần và vật chất mà thượng đế đã ban cho họ. Ý thức và tiềm thức ấy có được không phải từ một nhà truyền giáo, cũng không có một tổ chức hay đoàn thể nào vận động, phát động, mà có được thông qua nhận thức thực tiễn lăn lộn, hoà nhập với vịnh đảo. Đối với họ, Vịnh Hạ Long trước hết là một miền đất thiêng, nơi đàn Rồng hạ giới. Ngoài hai vịnh lớn mang tên Hạ Long (Rồng mẹ xuống) và Bái Tử Long (Rồng con quỳ), còn một số đảo cũng ghi dấu ấn của Rồng, như hòn Rồng, Cái Rồng, Long Châu, Long Vĩ (tức Trà Cổ)… Ý niệm của người xưa, sống ở nơi đất rồng là sống ở nơi phát tích những điều đại phúc, chỉ những người sống phúc đức, lành hiền mới được trời ban cho đặc ân ấy. Trong tiềm thức của họ, hình tượng con rồng hạ giới và miền đất thiêng luôn ám ảnh họ. Mỗi đảo núi, lạch luồng trên vịnh, đối với họ cũng trở thành những biểu tượng của sự thiêng liêng, cung kính: hòn Cô Tiên, hòn Ông Cụ, núi Truyền Đăng, hòn Voi Phục, hòn Yên Ngựa, hòn Bụt Đày… Dĩ nhiên rồi, đã là đất thiêng, thì phải trân trọng giữ gìn, bảo vệ với bất cứ giá nào.
Bến cá ven bờ Vịnh Hạ Long. (Ảnh do C.Berruyer - Pháp chụp năm 1938). |
Cư dân trên vịnh đã từ bao đời sống thành vạn chài, mỗi vạn chài quần tụ theo huyết thống, ngày đêm miệt mài quăng chài, thả lưới. Vịnh cho họ nguồn lợi tôm, cá, cua, ốc dồi dào, cũng cho họ những đặc sản quý hiếm mà các vùng biển khác của nước ta không có, như bào ngư, hải sâm, gà ghim, sá sùng… Vịnh cũng là nơi che chở họ những lúc sóng to gió lớn. Cuộc đời của họ gắn bó với vịnh từ lúc sinh ra, lớn lên cho đến lúc chết. Mỗi đảo, núi, luồng lạch trở nên thân thuộc như nhà cửa họ, như một phần cơ thể họ. Quây quần chung quanh họ không phải là những ngọn núi đá vô tri, mà là mái nhà, cánh buồm, cái bình tích, cái ấm, cái chén, bó đũa, đôi gà chọi, con chó, con mèo, bò lội, trâu đằm… Họ giữ gìn, bảo vệ Vịnh Hạ Long là giữ gìn, bảo vệ chính cuộc đời của họ.
Không một cư dân vùng biển nào trên đất nước ta lại có tục hát giao duyên đặc sắc, đằm thắm, quyến rũ như cư dân vùng biển Hạ Long. Họ hát lúc hội hè, lễ, tết, hát cả tuần trăng sáng, cá ăn tản, thuyền không đi đánh cá, neo lại dưới chân đảo cùng nhau hò hát. Họ hát cả lúc chèo thuyền đến ngư trường quăng câu, thả lưới giữa đêm khuya thanh vắng, để giải toả, cũng là để tìm bạn:
Đêm nay biển lặng như tờ
Ai cất tiếng hát bây giờ
mới ngoan
Có thể tiếng hát ban đầu là tiếng hát bâng quơ, không nhằm vào một đối tượng nào. Nhưng khi tiếng hát truyền qua đảo núi, bạn chài cùng tâm trạng, cùng hoàn cảnh, lập tức lên tiếng:
Tiếng ai lanh lảnh đường xa
Gió nam đưa lại cho ta
phải lòng
Trong lễ cưới của cư dân vạn chài Hạ Long xưa kia, khi thuyền nhà trai đến thuyền nhà gái đón dâu, hai họ hát xướng đối đáp như một lễ thức bắt buộc. Nếu thuyền nhà trai hát “thắng” thì nhà gái mới bỏ những dải lụa chằng ngang thuyền, cho họ nhà trai vào làm lễ đón dâu. Lễ thức này tồn tại đến những năm 50 của thế kỷ XX, đã biến đám cưới thành cuộc sinh hoạt văn hoá vui nhộn, tình cảm.
Một miền đất đã ăn sâu vào tâm linh, là nguồn sống về vật chất, là nơi nuôi dưỡng tinh thần, tình cảm của người dân như Vịnh Hạ Long, được người dân trân trọng giữ gìn, bảo vệ như một vật thiêng, là điều đương nhiên.
Rất tiếc, truyền thống tốt đẹp ấy đã bị mai một dần, nhất là từ khi nền kinh tế thị trường xâm nhập sâu, Vịnh Hạ Long cũng giảm nhiều vẻ đẹp xưa, lộng lẫy mà yên tĩnh, hoang sơ.
Tuy không có quy chế nghiêm ngặt nào của nhà nước phong kiến về bảo tồn Vịnh Hạ Long, nhưng các vua chúa đời xưa thường đến Vịnh Hạ Long kinh lý. Mỗi chuyến kinh lý của nhà vua xem xét nhiều vấn đề hệ trọng của đất nước, kể cả bảo toàn non sông gấm vóc, nếu phát hiện nơi nào vi phạm, thì quan đầu tỉnh bị xử nặng.
Thi Sảnh
Sử sách xưa chép lại, đã có những cuộc kinh lý Vịnh Hạ Long của các ông vua sau: - Vua Trần Thánh Tông (1240-1290). - Vua Lê Thánh Tông (1442-1497), kinh lý Vịnh Hạ Long vào mùa xuân, tháng 2, năm 1468. - Chúa Trịnh Cương (1668-1730), kinh lý Vịnh Hạ Long vào ngày 28-2-1729. - Vua Khải Định kinh lý Vịnh Hạ Long ngày 22-3-1918. Những chuyến kinh lý trên, chẳng những không thấy các bậc tiên đế quở trách gì về việc giữ gìn bảo vệ Vịnh Hạ Long, trái lại đều có thơ ngợi ca vẻ đẹp như mơ của đảo nước mây trời: Cảnh tượng đâu thú lạ (Trần Thánh Tông) Quần đảo rải rác như bàn cờ bể liền trời sắc xanh biếc (Lê Thánh Tông) Núi thì lấp loáng bóng nước, nước thì lênh láng lưng trời (Trịnh Cương) Luỹ trời để lại thực nhiều vẻ (Khải Định) Nghĩa là các bậc vua chúa đều gián tiếp thừa nhận việc bảo tồn Vịnh Hạ Long của ông cha ta xưa là hoàn hảo. |
Liên kết website
Ý kiến ()