Tất cả chuyên mục
Thứ Năm, 18/04/2024 18:44 (GMT +7)
Hưởng ứng ngày nước thế giới, 22-3: Giữ cho nguồn nước không bị ô nhiễm
Thứ 3, 21/03/2017 | 08:57:24 [GMT +7] A A
Không chỉ là một trong những quốc gia thiếu nước trên thế giới, Việt Nam hiện còn phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm nguồn nước (ÔNNN), nhất là nguồn nước mặt. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên là do nước thải từ sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và sinh hoạt chưa được xử lý, hoặc xử lý chưa đạt quy chuẩn cho phép... Đây là vấn đề được xã hội hết sức quan tâm hiện nay.
Đoàn viên, thanh niên tham gia vớt rác làm sạch môi trường nước tại khu vực Cửa Vạn (Vịnh Hạ Long). Ảnh: Mạnh Trường |
Nước ta có 3.450 sông, suối tương đối lớn (chiều dài từ 10km trở lên) phân bố ở 108 lưu vực sông. Về trữ lượng, Việt Nam được đánh giá là quốc gia thiếu nước, với tổng lượng nước mặt trung bình hằng năm khoảng 830 tỷ m3, phân bố chủ yếu ở các lưu vực sông như: Sông Cửu Long 475 tỷ m3 lượng nước mặt (chiếm 57% tổng lượng nước mặt của cả nước), sông Hồng - Thái Bình 135 tỷ m3 lượng nước mặt (chiếm 16%), sông Đồng Nai 34 tỷ m3 lượng nước mặt (chiếm 4%), số còn lại là trên các lưu vực sông khác. Trong khi đó, có hơn 60% số lượng nước được sản sinh từ nước ngoài, chỉ có khoảng 310 tỷ m3 được sản sinh trên lãnh thổ Việt Nam và trữ lượng nước dưới đất khoảng 63 tỷ m3/năm... Chất lượng nguồn nước ở các khu vực đầu nguồn còn tương đối tốt, tuy nhiên tại một số khu vực đầu nguồn có dấu hiệu ô nhiễm cục bộ ở một số thời điểm do tác động của các hoạt động khai thác khoáng sản. Mức độ ÔNNN trên mỗi sông, mỗi đoạn sông phụ thuộc vào chế độ dòng chảy, số lượng chất thải, nước thải đổ vào và việc kiểm soát các nguồn thải. Do đó có thể thấy rằng, ÔNNN tập trung chủ yếu ở vùng trung lưu và hạ lưu, ở các đoạn sông, suối chảy qua khu vực đô thị, khu công nghiệp, làng nghề, nhiều nơi ô nhiễm đã ở mức nghiêm trọng như ở hạ lưu sông Nhuệ - Đáy (Hà Nội), sông Cầu, lưu vực sông Đồng Nai, kênh Nhiêu Lộc Thị Nghè (TP Hồ Chí Minh), sông Tô Lịch, Kim Ngưu (Hà Nội)... Nguồn nước tại các khu vực bị ô nhiễm hầu hết do các chất hữu cơ và vi sinh vật vượt ngưỡng cho phép, tình trạng ô nhiễm hữu cơ diễn ra khá phổ biến tại nhiều lưu vực sông. Vấn đề ô nhiễm nguồn nước do dầu mỡ cũng thường xảy ra ở những đoạn sông có hoạt động giao thông thủy phát triển, hoặc những đoạn sông tiếp nhận nước thải công nghiệp của các cơ sở sản xuất, các khu vực cảng. ÔNNN do kim loại nặng mang tính cục bộ, tập trung chủ yếu ở những sông nhánh gần các khu vực khai thác khoáng sản hoặc các cơ sở sản xuất công nghiệp...
Các chuyên gia cho rằng, một trong những nguyên nhân gây ÔNNN ở Việt Nam hiện nay, là do tình trạng xả nước thải từ sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và sinh hoạt chưa được xử lý, hoặc xử lý chưa đạt quy chuẩn cho phép. Theo số liệu thống kê, cả nước hiện có khoảng 283 khu công nghiệp (KCN) đang hoạt động, trong đó khoảng 75% số KCN đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung; 12% số KCN đang xây dựng, còn lại đang xây dựng lộ trình đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung. Các hệ thống xử lý nước thải tập trung ở các KCN mới chỉ xử lý được khoảng 60% số lượng nước thải phát sinh. Lượng nước thải còn lại, một phần do các cơ sở đã được miễn trừ đầu nối và tự xử lý và một phần không qua xử lý mà xả trực tiếp ra môi trường. Đối với các cụm công nghiệp (CCN), đến nay cả nước có khoảng hơn 900 CCN, tỷ lệ các dự án đầu tư vào các CCN hiện nay chiếm tỷ lệ thấp hơn so với tỷ lệ dự án đầu tư vào các KCN. Tuy nhiên, mức độ phát thải trên đơn vị diện tích của các CCN không thua kém các KCN, trung bình từ 15m3 đến 20m3 nước thải/ngày/đêm, trong khi, chỉ có khoảng 5% trong tổng số các CCN đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung, còn lại là tự xử lý hoặc xả trực tiếp ra môi trường...
Nước thải từ các làng nghề, nước thải sinh hoạt vẫn chủ yếu được xả trực tiếp vào hệ thống thoát nước mặt. Do vậy, tình trạng ô nhiễm môi trường nước đã và đang tiếp tục trở thành mối đe dọa thường trực đối với môi trường sinh thái, sức khỏe cộng đồng dân cư sống trong các làng nghề, người dân khu vực chung quanh làng nghề... Ngoài ra, việc thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt còn rất hạn chế. Chỉ có một số thành phố lớn mới có hệ thống công trình thu gom, xử lý tập trung, nhưng cũng chỉ thu gom được một phần nhỏ lượng nước thải của thành phố, còn lại hầu hết nước thải từ các hộ dân đều xả trực tiếp vào hệ thống cống, rãnh, sông ngòi. Cho nên, phần lớn sông, ngòi, kênh, rạch chảy qua các đô thị đều bị ô nhiễm, nhất là các sông ngòi nhỏ đang trở thành nơi chứa nước thải tại nhiều khu vực đô thị hiện nay.
Theo ý kiến của nhiều chuyên gia về môi trường, để tiếp tục nâng cao, đẩy mạnh công tác bảo vệ nguồn nước, cũng như từng bước làm giảm ÔNNN ở Việt Nam thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần phối hợp chặt chẽ các bộ, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội tập trung tuyên truyền nâng cao ý thức tự giác của người dân trong việc bảo vệ nguồn nước; phát hiện và thông báo cho cơ quan quản lý nguồn nước ở địa phương và Trung ương các đối tượng có nguy cơ gây ÔNNN; tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật về tài nguyên nước và bảo vệ môi trường, nhất là các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước thải; khuyến khích các tổ chức, cá nhân sử dụng nước tiết kiệm, đầu tư đổi mới các giải pháp, công nghệ như “xử lý an toàn, tái sử dụng nước thải để biến nước thải thành tài nguyên”; tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước, môi trường tại các khu kinh tế, KCN, CCN, làng nghề, lưu vực sông và hoạt động khai thác, vận chuyển và chế biến khoáng sản; đồng thời xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về tài nguyên nước, môi trường...
Theo TS. Nguyễn Minh Khuyến
(nhandan.com.vn)
Liên kết website
Ý kiến ()