Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 29/03/2024 13:50 (GMT +7)
50 năm ấy biết bao tự hào...
Chủ nhật, 16/07/2017 | 09:52:02 [GMT +7] A A
Cách đây 50 năm, tháng 7-1967, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, gần 2.000 thợ mỏ Vùng than đã gác búa, gác choòng, ra nhập Binh đoàn Than để cầm súng lên đường vào Nam chiến đấu. Họ đã lập nên nhiều chiến công làm rạng danh non sông, rạng danh Vùng mỏ, ngành than, nhiều người đã anh dũng ngã xuống cho ngày toàn thắng, thống nhất đất nước. Nửa thế kỷ đã trôi qua nhưng với những cựu chiến binh Binh đoàn Than, ký ức về những ngày tháng hào hùng ấy vẫn còn hiển hiện trong tâm trí họ như thể mới ngày hôm qua.
Quang cảnh lễ xuất quân của Binh đoàn Than tổ chức tại sân Cây Tháp (Hòn Gai) ngày 27-7-1967. Ảnh: Quang Sơn |
Binh đoàn huyền thoại
Tháng 7 năm 1967, để chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, Trung ương đã chỉ đạo tỉnh Quảng Ninh và ngành Than tổ chức một đợt tuyển quân quy mô lớn. Cuộc tuyển quân diễn ra hết sức khẩn trương. Chỉ trong vòng 4 ngày (từ 27 đến 30-7-1967), tỉnh Quảng Ninh và ngành Than đã huy động đủ quân cho 3 tiểu đoàn với số quân khoảng 2.000 người: Tiểu đoàn 385 gồm công nhân Nhà máy Cơ khí Hòn Gai, công nhân Mỏ than Hà Tu, Hà Lầm... Tiểu đoàn 386 gồm công nhân các mỏ Đèo Nai, Cọc Sáu, Cơ khí Cẩm Phả... và Tiểu đoàn 9 tuyển quân toàn tỉnh.
- Binh đoàn Than thành lập cuối tháng 7-1967 với khoảng 2.000 chiến sĩ, biên chế thành 3 tiểu đoàn. Trải qua nhiều cuộc chiến đấu anh dũng, hơn 1.000 chiến sĩ đã hy sinh, hơn 400 người là thương binh, bệnh binh. - Tiểu đoàn đặc công 406 và cá nhân liệt sĩ Nguyễn Xuân Việt (Đại đội trưởng Đại đội 209) được phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Hơn 100 chiến sĩ được phong tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ, được thưởng huân, huy chương các loại. - Ban Liên lạc Binh đoàn Than hiện có 200 hội viên. |
Cựu chiến binh (CCB) Vũ Xuân Đa, từng là công nhân mỏ Mông Dương, nhớ lại, sau lễ tuyên thệ xuất quân, các chiến sĩ thợ mỏ được lãnh đạo và ngành Than đến thăm, tặng quà và đặt tên “Binh đoàn Than”. Đó là kỷ niệm không bao giờ quên vì nó đã nhắc nhở ông và các đồng đội phát huy truyền thống thợ mỏ kiên cường. “Binh đoàn Than” không phải là một phiên hiệu quân đội nhưng đã đi vào lịch sử như một trang chói ngời, một huyền thoại trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Cái tính chất huyền thoại đó theo giải thích của cụ Nguyễn Ngọc Đàm, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh - người đặt tên đoàn quân đặc biệt này là Binh đoàn Than thì nó thể hiện ở ngay cái tên. Các tiểu đoàn hợp lại thì phải là Trung đoàn chứ sao lại gọi là Binh đoàn? Đặt tên đó cho rõ khí thế Vùng mỏ và cũng là chiến thuật đánh lừa địch bởi vì khi nghe Vùng mỏ có Binh đoàn Than xuất quân, địch không hiểu binh đoàn là thế nào, quân số ra sao nên sẽ ít nhiều có sự hoang mang trong đánh giá nhận định lực lượng của ta.
Nhưng cũng vì nỗi khiếp sợ đó mà Mỹ tìm mọi cách tiêu diệt đơn vị này. “Nửa tháng sau, chúng tôi đã nghe đài BBC loan tin rằng có một binh đoàn đặc nhiệm của Việt cộng bao gồm toàn quân của than từ Vùng mỏ đang hành quân vào Nam và Mỹ ra sức bỏ bom tìm diệt chúng tôi trên đường hành quân” - Ông Bùi Duy Thinh, nguyên Trưởng Ban Liên lạc Binh đoàn Than, kể.
Cựu chiến binh Binh đoàn Than viếng mộ Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân Nguyễn Xuân Việt tại Nghĩa trang liệt sĩ Hà Tu (TP Hạ Long). |
Huyền thoại những chiến công
Nhuệ khí của Binh đoàn Than đã được chứng minh trong thực tiễn chiến đấu chứ không phải qua tin đồn. Khi vào trận, chiến sĩ Binh đoàn Than ai cũng anh dũng lập chiến công, nhiều người được phong tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ, Dũng sĩ diệt xe cơ giới, Huân chương Chiến sĩ giải phóng v.v.. Trong chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh, chiến sĩ Binh đoàn Than đánh trận đầu tiên đã giành chiến thắng; chiếm điểm cao 689, 845, 833 và cắt đường số 9, tạo điều kiện cho các đơn vị khác tiến lên làm chủ nhiều vị trí quan trọng. Đồng chí Phạm Xuân Hùng (công nhân Tuyển than Cửa Ông) đã bắn cháy 2 xe tăng, 1 xe cơ giới của địch.
Sau năm 1968, vì là quân công nghiệp - vốn có tính kỷ luật cao hơn nên chiến sĩ Binh đoàn Than được chia ra bổ sung cho các đơn vị. Họ trở thành nòng cốt trong các đơn vị chiến đấu; tham gia nhiều trận đánh lớn ở Tây Nguyên; giúp Lào giải phóng thị xã A-tô-pơ, cao nguyên Pô-lô-ven; giúp Campuchia giải phóng thành phố Công-Pông-Thom, thị xã S-tung Cheng, Cra-Chi-ê. Một số khác có mặt trong các Sư đoàn 320, Sư đoàn 304, Sư đoàn 340 và những sư đoàn chủ lực của Bộ Tổng tham mưu. Theo Đại tá Trần Bá Đức, Chủ tịch Hội CCB TP Cẩm Phả - CCB Binh đoàn Than, dấu chân người lính Binh đoàn đã in suốt chiều dài dãy Trường Sơn, rồi lại xuống miền Đông Nam Bộ, sang miền Tây Nam bộ sang đến Lào, Campuchia.
Riêng Tiểu đoàn 9, theo CCB Phạm Hồng Thái (hiện ở phường Bãi Cháy, TP Hạ Long) gồm hơn 600 quân chia ra 200 chiến sĩ bổ sung củng cố Tiểu đoàn đặc công 406 có nhiệm vụ thọc sâu, bám sát thắt lưng địch ở ngay cơ quan đầu não của chúng ở Bắc Tây Nguyên. 300 quân được bổ sung cho Trung đoàn 66 và còn lại khoảng 100 quân thì bổ sung cho Trung đoàn 95 và một số đơn vị khác. CCB Trần Đình Diễn (hiện ở phường Bãi Cháy, TP Hạ Long) từng chiến đấu ở Tây Nguyên kể, lúc đó chiến sĩ sinh hoạt rất thiếu thốn nhưng chiến đấu vô cùng anh dũng. Mỗi lần xuất kích là một lần lao vào cuộc chiến ác liệt nên nhiều trận anh em đã được làm lễ truy điệu sống trước lúc lên đường.
Như vậy, chiến sĩ Binh đoàn Than đã có mặt ở những nơi ác liệt nhất, lập nhiều chiến công như: Trận đánh vào kho xăng Nhà Bè do đồng chí Nguyễn Đức Bình (công nhân mỏ Đèo Nai) cùng đồng đội tiến hành đã tiêu huỷ hàng vạn lít xăng dầu của địch; trận đánh cầu Mương Chuối (Long An) do đồng chí Lê Xuân Ba chỉ huy; trận đánh trên sông Rạch Dừa, do trung đội trưởng Lại Ngọc Nhiếp (công nhân mỏ Thống Nhất) chỉ huy đã bắn chìm 2 tàu chiến, tiêu diệt nhiều lính Mỹ, Ngụy; trận đánh của Trung đội trưởng Đỗ Văn Đồng (công nhân Tuyển than Cửa Ông) tiêu diệt một trung đội lính Ngụy dẫn đường; chiến sĩ Trịnh Xuân Đối (công nhân mỏ Thống Nhất) 4 lần được phong Dũng sĩ diệt Mỹ; chiến sĩ Trần Văn Phóng đóng giả sĩ quan Ngụy đánh chiếm Sở chỉ huy địch, hết đạn vẫn chiến đấu bằng dao găm hay như chiến sĩ Trần Lệnh Ngôn chỉ huy đại đội chiến đấu liên tục 10 giờ, đứt 1 chân vẫn không rời vị trí v.v..
Riêng Tiểu đoàn 9 trở thành lực lượng nòng cốt lập nhiều chiến công, góp phần cho Tiểu đoàn đặc công 406 được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Liệt sĩ Nguyễn Xuân Việt (Đại đội trưởng Đại đội 209) được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Tất cả những chiến công đó đã khiến cho cái tên Binh đoàn Than ngày càng lừng danh.
Trong số 2.000 chiến sĩ xuất quân, nhiều người nằm lại chiến trường, nhiều người trở thành thương binh, bệnh binh. Hiện nay, theo thống kê chưa đầy đủ thì Binh đoàn Than có khoảng trên 1.000 liệt sĩ và gần 400 thương, bệnh binh. Những người lành lặn phần lớn lại quay về, gắn bó với ngành Than cho đến khi nghỉ hưu. Họ tập hợp nhau lại thành lập Ban Liên lạc, thực hiện công tác đền ơn đáp nghĩa, tương trợ nhau lúc khó khăn, hoạn nạn. Với những người còn sống, chiến tranh đã lùi xa, cái tên Binh đoàn Than vẫn mãi mãi là niềm tự hào về một thời trẻ trai ra đi từ Vùng mỏ anh hùng.
Huỳnh Đăng
Hồi ức chiến sĩ Binh đoàn Than ÔNG NGUYỄN HẢI HIỆP, TRƯỞNG BAN LIÊN LẠC BINH ĐOÀN THAN: ÔNG BÙI DUY THINH, PHƯỜNG CAO THẮNG (TP HẠ LONG): ÔNG TRỊNH XUÂN ĐỐI, PHƯỜNG CẨM TÂY (TP CẨM PHẢ): ÔNG LƯU VĂN QUÝ, PHƯỜNG HỒNG HẢI (TP HẠ LONG): ÔNG CHU VĂN ĐÍCH, PHƯỜNG HÀ LẦM (TP HẠ LONG): Phạm Học (Thực hiện) |
Liên kết website
Ý kiến ()