Tất cả chuyên mục
Thứ Bảy, 20/04/2024 05:28 (GMT +7)
Vẹn nguyên những ký ức Tháng Tư
Chủ nhật, 30/04/2017 | 06:54:50 [GMT +7] A A
Trong những ngày Tháng Tư lịch sử này, hoà trong niềm vui hân hoan của nhân dân cả nước hướng về kỷ niệm 42 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Đất nước 30-4 (1975-2017), nhân dân Quảng Ninh còn thêm tự hào, phấn khởi kỷ niệm 62 năm Ngày giải phóng Vùng mỏ 25-4 (1955-2017). Hơn 60 năm đã trôi qua nhưng ký ức về những ngày tháng lịch sử hào hùng, trọn vẹn nghĩa tình của giai cấp công nhân Vùng mỏ trong cuộc kháng chiến vẫn in sâu đậm trong ký ức của những người trực tiếp chiến đấu, đóng góp công sức giải phóng quê hương và những người chứng kiến thời khắc lịch sử ấy.
Chuyện kể của những vị lão thành cách mạng
Cụ Nguyễn Ngọc Đàm kể chuyện cho cháu nội nghe về những sự kiện diễn ra trong ngày giải phóng Khu mỏ. |
Vào một ngày Tháng Tư lịch sử, chúng tôi đến TP Cẩm Phả, cái nôi của giai cấp công nhân Vùng mỏ, để tìm hiểu về những ngày tháng sục sôi khí thế cách mạng cách đây hơn 60 năm. Men theo ngõ nhỏ khu Minh Hoà, phường Cẩm Bình, TP Cẩm Phả, chúng tôi tìm đến nhà cán bộ lão thành cách mạng Hoàng Bách (tức Phạm Khắc Hựu), một trong những người tham gia cuộc đấu tranh giải phóng Vùng mỏ Cẩm Phả và cũng là một trong những đảng viên đầu tiên của Chi bộ Đảng ở Cẩm Phả. Mặc dù năm nay đã 92 tuổi với hơn 70 năm tuổi Đảng nhưng cụ còn rất minh mẫn, giọng nói sang sảng. Nhớ lại quãng thời gian trước ngày giải phóng Vùng mỏ, cụ Hoàng Bách kể: Từ khi thực dân Pháp biến vùng đất Đông Bắc thành khu mỏ khai thác than, hàng vạn thợ mỏ sống trong cảnh nô lệ, lầm than. Hồi đó, tôi tầm 19-20 tuổi, làm công nhân xe cuốc Tầng 2 Lộ Chí (công trường phía Đông, mỏ than Đèo Nai). Khi ấy, phu mỏ phải làm quần quật từ sáng sớm tới tối mịt mới được về, nên chúng tôi thường có câu “Con không biết mặt cha, chó không biết mặt chủ nhà”. Không những vậy, công nhân mỏ phải chịu cảnh khổ sai, đói khát. Mỗi ngày cai ký bắt công nhân phải khai thác đủ 21 chuyến xe than. Đàn ông chống cuốc, đào than, xúc lên xe goòng được 40 xu/ngày, đàn bà đẩy goòng được 30 xu/ngày. Thời ấy, người dân Vùng mỏ vẫn truyền nhau câu ca về sự khổ cực của công nhân mỏ “Đi xe về xe, ăn cơm đường, uống nước lã”. Có lẽ vì cơ cực như thế nên đến ngày 22-4-1955, khi bộ đội ta tiếp quản TX Cẩm Phả, thợ mỏ và nhân dân náo nhiệt chào đón, nhất là thợ mỏ thì niềm vui khôn tả. Đời sống công nhân cũng được nâng lên rất nhiều, từ 21 chuyến chúng tôi chỉ phải làm 5 chuyến/ngày; 12 tiếng đồng hồ làm việc xuống còn 8 tiếng...
Cũng giống như cụ Hoàng Bách, ngày giải phóng Vùng mỏ vẫn còn vẹn nguyên trong ký ức của cụ Nguyễn Ngọc Đàm, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh, nguyên Chủ tịch Uỷ ban Hành chính khu Hồng Quảng. Ở cái tuổi xưa nay hiếm 96, nhưng gần như những sự kiện diễn ra trong ngày giải phóng Khu mỏ, cụ Đàm nhớ như in. Cụ kể cho chúng tôi nghe về chuyện ngày giải phóng Khu mỏ 25-4-1955: Trước ngày giải phóng, ở Khu mỏ, thực dân Pháp thực hiện chế độ thiết quân luật, xoá bỏ quyền dân chủ mà Hiệp định Giơ-ne-vơ (năm 1954) quy định. Chúng liên tiếp tổ chức các cuộc tập trận, hành quân vây ráp và cưỡng ép nhân dân ở các vùng tạm chiếm trước đây di cư vào miền Nam. Tỉnh Quảng Yên và tỉnh Hải Ninh là một trong những địa bàn trọng điểm trong kế hoạch cưỡng ép người dân di cư vào miền Nam của địch. Cùng với đó, thực dân Pháp còn ráo riết thực hiện mọi thủ đoạn vơ vét thật nhanh, thật nhiều sức người, sức của ở Khu mỏ. Bọn chủ mỏ Pháp tiến hành khai thác than một cách ồ ạt. Chúng nâng mức khoán lên 50%, nâng ngày làm việc lên 12 giờ, dự tính sẽ sa thải 60% công nhân... Bọn chủ mỏ Pháp ra sức tìm cách di chuyển máy móc, thiết bị ra khỏi Khu mỏ. Trước tình hình đó, Trung ương, Đặc khu uỷ Hòn Gai đã chỉ thị cho các cơ sở của ta trong Khu mỏ bí mật thành lập các tổ tự vệ công nhân ở các công trường, xí nghiệp để bảo vệ máy móc thiết bị và các cơ sở công nghiệp. Khoảng tháng 2-1955, trước tinh thần đấu tranh của công nhân Khu mỏ không cho chủ mỏ Pháp di chuyển máy móc, thiết bị, chủ mỏ Pháp đòi gặp đại diện Chính phủ ta để thương lượng. Bác Hồ đã gửi điện triệu tập lãnh đạo Đặc khu uỷ Hòn Gai lên báo cáo tình hình và nhận chỉ đạo của Trung ương. Lúc đó với vai trò là Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Uỷ ban Hành chính khu Hồng Quảng, tôi lên Hà Nội để gặp Bác báo cáo và xin nhận chỉ đạo của Trung ương. Lúc đó, Bác khen cách làm của lãnh đạo Đặc khu và chỉ đạo phải giám sát chặt, kiên quyết đấu tranh không cho chủ mỏ Pháp tháo, di chuyển máy móc và vận động công nhân, nhất là những công nhân lành nghề, thợ giỏi không được di chuyển vào Nam, để sau này tiếp quản ta có máy móc thiết bị và người quản lý làm việc được ngay... Và cuộc đấu tranh của công nhân và nhân dân Khu mỏ đã làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của bọn thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, làm tê liệt bộ máy tay sai của địch, buộc chúng phải rút khỏi Khu mỏ theo đúng thời gian quy định của Hiệp định Giơ-ne-vơ. 8 giờ 30 phút ngày 25-4-1955, tại cuộc mít tinh ở TX Hòn Gai, Uỷ ban Quân chính Hồng Quảng, trong đó có tôi và các đồng chí Hoàng Hữu Nhân, Trịnh Nguyên và Nông Công Dũng ra mắt trước toàn thể nhân dân. Ngày đầu tiếp quản gặp vô vàn khó khăn, người Pháp rút khỏi Khu mỏ đã tuyên bố ít ra phải 20 đến 25 năm nữa người Việt Nam mới đào được than. Nhưng thực tế chỉ 2 ngày sau đó, công nhân mỏ đã khôi phục được sản xuất ở các nhà máy, tầng lò, bến cảng... Trong khó khăn, nhiều việc làm của thợ mỏ lúc bấy giờ đã được coi là gương sáng trong cả nước về tinh thần vượt khó. Hệ thống đường trục bị Pháp tháo hết, trong khi than sản xuất trên núi cao so với mặt biển từ 500 đến 600m. Lúc bấy giờ, kỳ tích lớn nhất của chúng ta là sau khi tiếp quản đã nhanh chóng khôi phục hệ thống đường trục, sản xuất than vượt cả thời Pháp, phục vụ cho các ngành công nghiệp nước nhà.
Truyền lửa cho mai sau
Cán bộ lão thành cách mạng Hoàng Bách vẫn còn nhớ như in quãng thời gian ngày giải phóng Khu mỏ. |
Cụ Nguyễn Thị Xây, 78 tuổi, ở tổ 7, khu 2, phường Hồng Hà (TP Hạ Long) vẫn còn nhớ mãi ngày chứng kiến quân Pháp rút khỏi Khu mỏ. Cụ kể: Tôi sinh ra và lớn lên trong một làng chài nhỏ ven bờ Vịnh Hạ Long. Ngay từ nhỏ, gia đình tôi đã phải sống trong cảnh lầm than, cơ cực trước ách thống trị của Thực dân Pháp. Từ năm lên 7 tuổi tôi đã phải theo cha mẹ xuống biển mò cua, bắt ốc cực nhọc, khốn khổ vô cùng. Thời điểm ấy, bọn tuần đinh, thực dân Pháp thường xuyên cho ca nô tuần tra, hạch hỏi cướp đồ mà người dân mất bao mồ hôi mới đánh bắt được. Khủng khiếp hơn là mỗi khi nghi ngờ bà con tiếp tế cho cách mạng hay có hành vi chống đối, chúng càn quét, đánh đập người già, trẻ em, đốt phá nhà cửa, phương tiện làm ăn của người dân chúng tôi một cách không thương tiếc. Song cảnh cơ cực, lầm than ấy cũng kết thúc khi những tên lính Pháp cuối cùng rời Khu mỏ về nước. Khi ấy, làng chài chúng tôi phấn khởi lắm. Tiếng trẻ nhỏ, thanh niên tập hát Quốc ca vang cả làng trên, xóm dưới. Hôm bộ đội về tiếp quản TX Hòn Gai, tôi theo bố mẹ chèo thuyền theo bà con làng chài nô nức tiến về sông Cửa Lục. Thuyền nào, thuyền nấy đều cắm cờ đỏ sao vàng. Cán bộ cách mạng về tận từng nhà tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách, cách phòng gian, bảo mật, chống bị cưỡng bức di cư vào Nam...
Nếu trong thời chiến, những người chiến sĩ cách mạng ấy luôn sẵn sàng chiến đấu, đóng góp công sức cho sự nghiệp giải phóng quê hương, thì hôm nay giữa thời bình, họ lại tiếp tục thực hiện sứ mệnh truyền lửa, tiếp thêm ý chí, lòng yêu nước cho thế hệ trẻ. Đặc biệt, những thời khắc lịch sử quan trọng ấy đã được ghi lại chân thực, xúc động trong cuốn Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh, cuốn “Quảng Ninh đất ấm tình người”... luôn còn mãi với thời gian. Chính qua những cuốn tư liệu lịch sử đáng quý, những buổi toạ đàm, nói chuyện truyền thống về lịch sử quân đội, dân tộc, thế hệ trẻ có cơ hội được nghe chính những chứng nhân lịch sử kể lại những chiến công, những tấm gương chiến đấu hy sinh dũng cảm của quân và dân ta trong các cuộc kháng chiến. Qua đây, khơi dậy lòng yêu nước, tạo động lực, cổ vũ động viên thế hệ trẻ không ngừng học tập, lao động, cống hiến trí tuệ, tài năng cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước trong thời kỳ mới.
Trúc Linh
Liên kết website
Ý kiến ()