Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 19/04/2024 09:22 (GMT +7)
"Các chính sách dân tộc đã được triển khai đầy đủ, kịp thời"
Thứ 4, 27/04/2016 | 10:44:46 [GMT +7] A A
Tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số ở Quảng Ninh chỉ chiếm 12,52% dân số nhưng lại cư trú trên 85% diện tích toàn tỉnh, ở những vị trí trọng yếu về quốc phòng an ninh, biên giới quốc gia; tuy vậy, đời sống đồng bào còn rất nhiều khó khăn. Nhận thức rõ điều đó, những năm qua, Trung ương, tỉnh đã triển khai thực hiện rất nhiều chính sách thiết thực, góp phần phát triển kinh tế - xã hội trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh...
(Ông Lãnh Thế Vinh, Trưởng Ban Dân tộc tỉnh, trả lời phỏng vấn Báo Quảng Ninh)
Ông Lãnh Thế Vinh, Trưởng Ban Dân tộc tỉnh trò chuyện với bà con dân tộc xã Hải Sơn (TP Móng Cái). Ảnh: Trịnh Vân Anh (Ban Dân tộc tỉnh) |
- Những năm qua, Trung ương, tỉnh đã dành sự quan tâm lớn đối với công tác dân tộc, đặc biệt là thực hiện các chính sách dân tộc, bình đẳng dân tộc. Vậy kết quả này được thể hiện cụ thể như thế nào, thưa ông?
+ Vùng dân tộc miền núi trên địa bàn tỉnh còn rất khó khăn nên những năm qua, Trung ương, tỉnh đã dành nguồn lực đầu tư, hỗ trợ khá lớn đối với vùng này, từ các vấn đề thiết yếu như đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, nhà ở hộ nghèo, hỗ trợ phát triển sản xuất cho đến y tế, giáo dục, việc làm dành cho đồng bào và con em người dân tộc thiểu số. Ở Quảng Ninh, các chính sách này khi triển khai không chỉ đầy đủ, kịp thời mà còn thường được thực hiện với mức cao hơn so với định mức quy định của Trung ương. Ví dụ như về chính sách hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo, hộ cận nghèo trong việc phát triển sản xuất, kinh phí hỗ trợ xoá nhà dột nát đều tăng lên gấp đôi so với quy định của Trung ương. 5 năm gần đây, chỉ riêng nguồn vốn từ ngân sách đầu tư cho các xã đặc biệt khó khăn (ĐBKK) đã là 613,9 tỷ đồng.
- Vùng dân tộc, miền núi của tỉnh Quảng Ninh gồm 113/186 xã, phường, thị trấn (trong đó có 22 xã khu vực III, 8 xã khu vực II và 83 xã khu vực I). - Theo số liệu Tổng điều tra dân số năm 2009, tỉnh Quảng Ninh có 22 thành phần dân tộc, trong đó 21 thành phần dân tộc thiểu số (143.278 người, chiếm 12,52% dân số của tỉnh). - Từ ngày thành lập tỉnh (30-10-1963) đến nay, cơ quan quản lý nhà nước về công tác dân tộc của tỉnh được hình thành lần thứ nhất với tên gọi Ban Dân tộc - Miền núi, hoạt động trong 22 năm (1964-1986), sau đó giải thể và được thành lập lại với tên gọi Ban Dân tộc và Tôn giáo trong 8 năm (từ tháng 3-2001 đến tháng 3-2008). Từ tháng 4-2008 đến nay đổi tên thành Ban Dân tộc. - Quá trình hoạt động, Ban Dân tộc tỉnh đã đạt nhiều kết quả quan trọng, nhiều lần được Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng - Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc, UBND tỉnh và các ban, bộ, ngành của Trung ương, của tỉnh khen thưởng. |
Chính vì thế, đến nay hạ tầng cơ sở vùng dân tộc miền núi toàn tỉnh đã có sự cải thiện rất lớn: Đường ô tô đến 100% các xã; đường thôn đã và đang được cứng hoá đạt tới 78%; đường nội thôn được cứng hoá, hệ thống kênh mương được cải thiện nhiều; 85% hộ dân được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 95% hộ được dùng điện lưới; y tế đã có 9/22 xã ĐBKK đạt chuẩn theo Bộ tiêu chí quốc gia, 100% các xã đạt chuẩn về y tế theo tiêu chí cũ; 100% các xã đều có các cơ sở giáo dục từ mầm non đến THCS đáp ứng yêu cầu học tập của con em...
Một nét nổi bật nữa là, kinh tế vùng dân tộc miền núi đã có sự chuyển biến rất tích cực. Ở đây thể hiện rõ là thu nhập của người dân đã có sự tăng lên. Một số mô hình sản xuất kinh tế hiệu quả đã và đang được nhân rộng. Sản phẩm OCOP vùng dân tộc, miền núi trước đây chỉ phục vụ tiêu dùng nội bộ nay bước đầu đã bước ra thị trường, như trà hoa vàng, miến dong, măng mai, mật ong... Cùng với đó, những phong tục tập quán tốt đẹp của đồng bào đã và đang được giữ gìn và phát huy, thể hiện rõ là du lịch đã bước đầu đi vào vùng miền núi, dân tộc thiểu số.
Với sự khởi sắc toàn diện như thế, niềm tin của đồng bào dân tộc với Đảng, Nhà nước có sự củng cố, gắn bó hơn. Chính vì thế mà vùng dân tộc miền núi ở tỉnh cho đến nay chưa có “điểm nóng”, tôn giáo trái pháp luật khó có thể xâm nhập được vùng dân tộc ở Quảng Ninh. Đây là điều không dễ chút nào, cần được phát huy.
- Đồng bào dân tộc thiểu số chỉ chiếm 12,52% dân số nhưng lại cư trú trên 85% diện tích toàn tỉnh, điều kiện kinh tế - xã hội dù đã có cải thiện vẫn còn nhiều hạn chế. Vậy khó khăn lớn nhất trong công tác dân tộc của tỉnh hiện nay là gì, thưa ông?
+ Khó khăn lớn nhất ở Quảng Ninh là sự chênh lệch quá lớn về mức sống và thu nhập của người dân vùng dân tộc miền núi, ĐBKK so với vùng đồng bằng, đô thị của tỉnh. Đơn cử như về tỷ lệ hộ nghèo, theo tiêu chí mới về nghèo đa chiều thì ở địa bàn 22 xã ĐBKK của tỉnh có 9.802 hộ nghèo và cận nghèo, chiếm tỷ lệ 63,56%. Trong đó, riêng tỷ lệ hộ nghèo là 43,91%, cao gấp 14 lần so với tỷ lệ hộ nghèo ở các xã khu vực I. Khoảng cách chênh lệch này có xu hướng ngày càng rõ, để thu hẹp là cực kỳ khó khăn.
Thứ hai, hạ tầng thiết yếu ở vùng dân tộc miền núi được đầu tư chưa đồng bộ, do địa hình khó khăn nên suất đầu tư cần nguồn kinh phí rất lớn, trong khi khả năng huy động tại chỗ không đáng kể, vì vậy việc phát huy còn gặp nhiều khó khăn. Về vấn đề này, chúng tôi cũng đã tham mưu cho tỉnh có những chủ trương mới trong giai đoạn 2016-2020, xác định quan điểm là ngân sách phải là chủ đạo thì mới giải quyết được hạ tầng thiết yếu phục vụ cho sản xuất và đời sống của vùng này, nhất là các xã ĐBKK là “vùng lõi” của cái nghèo.
Thêm nữa, việc thu hút đầu tư vào vùng dân tộc, miền núi cực kỳ khó khăn. Rất ít doanh nghiệp đầu tư vào đây, nếu có cũng chủ yếu là đầu tư rất nhỏ lẻ. Về chủ quan, tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước của một bộ phận người dân còn lớn; đội ngũ cán bộ ở vùng này, nhất là vùng ĐBKK yếu về năng lực, thiếu tính năng động, sáng tạo, một số vẫn còn có tư tưởng ỷ lại. Cơ quan quản lý nhà nước về công tác dân tộc ở một số huyện, bộ phận làm công tác dân tộc ở cấp xã đến nay chưa được quan tâm đúng mức, thậm chí có nơi còn thiếu quan tâm...
Thực hiện nghi lễ xuống đồng trong Hội Lồng tồng của đồng bào dân tộc Tày ở xã Phong Dụ (Tiên Yên) năm 2016. Ảnh: Công Thành |
- Vậy ngành công tác dân tộc của tỉnh sẽ tập trung vào những mục tiêu gì trong thời gian tới, thưa ông?
+ Công tác dân tộc tại Quảng Ninh là địa bàn có tính đặc thù, lại còn nhiều trở lực như trên nên trước hết, chúng tôi thấy cán bộ, công chức ngành công tác dân tộc phải tâm huyết, nhiệt tình, tiếp tục nâng cao trình độ, năng lực, gần dân, bám sát cơ sở… mới có thể đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới; sẽ phải tham mưu những chủ trương, định hướng lớn có tính chiến lược cho sự phát triển của vùng dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, công tác dân tộc cũng phải vào cuộc với những công việc rất cụ thể, để thực hiện nhiệm vụ xuyên suốt, đó là đến năm 2020, các xã phải ra khỏi diện ĐBKK; hơn 70% số xã vùng ĐBKK này cơ bản đạt các tiêu chí nông thôn mới.
Cụ thể, thực hiện Đề án về đất ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số là đến hết 2016 phải đạt 80% so với mục tiêu đặt ra. Triển khai mạnh mẽ chương trình 135, với nguồn vốn hỗ trợ năm 2016 này đã tăng lên gấp 2 lần và đến năm 2017 đề xuất tăng gấp 4 lần so với quy định của Trung ương. Đây chính là chương trình hướng tới mục tiêu giảm nghèo bền vững cho vùng đồng bào dân tộc miền núi. Đồng thời tham mưu xây dựng và tổ chức thực hiện Đề án huy động và lồng ghép các nguồn lực đầu tư hỗ trợ cho các xã, thôn ra khỏi diện ĐBKK, góp phần hoàn thành Chương trình 135 và xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020. Đề án này đang được trình phê duyệt, với nguồn lực cần thiết tối thiểu là 1.653,8 tỷ đồng, trong đó chủ yếu là từ ngân sách tỉnh với 1.048 tỷ đồng...
Từ những việc cụ thể như thế, mục tiêu cuối cùng là đảm bảo sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia, nâng cao đời sống nhân dân, giảm nghèo bền vững để vùng dân tộc miền núi có thêm trợ lực, giúp người dân vươn lên, tự đứng được trên đôi chân của mình.
- Xin cảm ơn ông!
Phan Hằng (thực hiện)
Liên kết website
Ý kiến ()