Tất cả chuyên mục
Thứ Sáu, 29/03/2024 18:47 (GMT +7)
Đoàn ĐBQH tỉnh tham gia thảo luận ở hội trường về dự thảo Luật khí tượng thủy văn
Thứ 2, 09/11/2015 | 07:59:41 [GMT +7] A A
Ngày 5/11 Quốc hội thảo luận ở Hội trường về Thảo luận ở hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật khí tượng thủy văn. Tham gia phát biểu thảo luận, Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Ninh có đại biểu Trần Văn Minh, Phó Trưởng Ban Dân nguyện.
Đại biểu Trần Văn Minh đồng tình với dự thảo Luật Khí tượng thủy văn và báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật của UBTVQH. Tuy nhiên ĐB tham gia thêm một số nội dung để hoàn thiện hơn dự thảo Luật.
1. Về quản lý và khai thác trạm KTTV chuyên dùng (chương II)
ĐB đồng tình với giải trình của UBTVQH về sự cần thiết, không thể thiếu của mạng lưới trạm KTTV chuyên dùng và việc giao cho các Bộ, ngành, địa phương, tổ chức, cá nhân qui định nội dung quan trắc đối với trạm KTTV chuyên dùng thuộc quyền quản lý. ĐB chứng minh sự đồng tình bằng ví dụ Sau trận lũ quét lịch sử xảy ra tại các huyện Bình Liêu, Ba Chẽ, Tiên Yên tháng 9/2008, Sở KH&CN đề xuất và UBND tỉnh Quảng Ninh đã đầu tư hệ thống giám sát và cảnh báo thiên tai tại các địa phương này. Hệ thống đã đi vào hoạt động năm 2010 và phát huy tác dụng.
Thực tế đã tồn tại mạng lưới trạm KTTV chuyên dùng và đó là một tất yếu khách quan, tôi hoàn toàn nhất trí với qui định trong dự thảo Luật.
2. Về yêu cầu đối với dự báo, cảnh báo KTTV (Điều 21)
Tại Khoản 3 quy định “Thông tin dự báo, cảnh báo KTTV phải đảm bảo độ tin cậy” và Khoản 2 quy định “Cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn phải chịu trách nhiệm về bản tin dự báo, cảnh báo KTTV do mình ban hành”. ĐB cho rằng quy định như vậy chưa hợp lý vì các lý do:
+ Thứ nhất: Thế nào là “bảo đảm độ tin cậy”? Khái niệm này thường chỉ dùng trong trao đổi quan hệ xã hội, không cụ thể, định lượng được; do vậy không thể dùng trong văn bản pháp luật với yêu cầu cao về tính cụ thể, chính xác và minh bạch. Thực tế, khó có thể qui định cụ thể thế nào là “bảo đảm độ tin cậy” một cách khoa học, có căn cứ.
+ Thứ hai: Khi bản tin dự báo, cảnh báo KTTV thiếu chính xác, gây hậu quả thì cơ quan, tổ chức, cá nhân đó chịu trách nhiệm thế nào? Đây cũng là một quy định rất chung, có lẽ trong các văn bản pháp luật hiện hành cũng như trong tương lai, khó có thể đưa ra những chế tài để xử lý việc dự báo thiếu chính xác; bởi bản thân của dự báo đã hàm chứa sự thiếu chính xác do qui luật vận động phức tạp của tự nhiên và xã hội, nhất là đối với sự bất thường, khó lường của tự nhiên trong dự báo, cảnh báo KTTV.
Do vậy, nên qui định cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm về những hành vi của mình được pháp luật qui định trong quá trình hoạt động nghiệp vụ để đưa ra dự báo, cảnh báo KTTV. Như vậy vừa bảo đảm được tính cụ thể, minh bạch, khả thi của Luật, vừa bảo đảm được tính khách quan của sự việc.
Đồng thời, để tránh trùng lặp, thiếu, thừa trong các quy định tại Điều 4 (Nguyên tắc hoạt động KTTV); Điều 13 Khoản 1 (Yêu cầu đối với quan trắc KTTV); Điều 21 (Yêu cầu đối với dự báo, cảnh báo KTTV). ĐB đề nghị sửa như sau:
* Điều 4, Khoản 3: Quan trắc KTTV phải bảo đảm chính xác, liên tục, thống nhất, đồng bộ theo quy chuẩn kỹ thuật, quy trình chuyên môn; kết quả quan trắc liên kết được trong phạm vi quốc gia và với quốc tế.
* Điều 13, Khoản 1, Điểm a: Quan trắc phải bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật được quy định tại Khoản 3 Điều 4 Luật này.
* Điều 4 Khoản 4: Dự báo, cảnh báo KTTV phải tuân thủ quy chuẩn kỹ thuật, quy trình chuyên môn. Thông tin dự báo, cảnh báo KTTV phải được cập nhật, truyền phát thường xuyên, kịp thời, chính xác, đầy đủ, dễ hiểu, dễ sử dụng và bằng ngôn ngữ tiếng Việt.
* Điều 21. Yêu cầu đối với dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn
1. Dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn phải bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật được quy định tại Khoản 4, Điều 4 Luật này.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn phải chịu trách nhiệm về bản tin dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn do mình ban hành khi không bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật được quy định tại Khoản 4 Điều 4 hoặc vi phạm những hành vi bị cấm tại Điều 8 của Luật này.
3. Về sử dụng bản tin dự báo, cảnh báo KTTV (Điều 27)
Khoản 2 qui định: Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động phòng, chống thiên tai phải sử dụng tin dự báo, cảnh báo thiên tai khí tượng thủy văn mới nhất do hệ thống quốc gia dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn ban hành.
ĐB nêu ra vấn đề, cơ quan, tổ chức, cá nhân có đầu tư hệ thống KTTV chuyên dùng để phục vụ mục đích cụ thể của mình thì họ có được sử dụng kết quả dự báo, cảnh bảo do hệ thống của mình đem lại không? nhất là khi kết quả dự báo, cảnh báo này có sự sai khác với dự báo, cảnh báo do hệ thống quốc gia ban hành; đặc biệt là khi kết quả của hệ thống KTTV chuyên dùng có thể có tính tin cậy cao hơn do thiết bị quan trắc được đầu tư phù hợp hơn với mục đích sử dụng, mật độ thiết bị quan trắc dày hơn, trong khi dự báo, cảnh báo của hệ thống quốc gia mang tính chất chung, trên diện rộng, thiếu tính cụ thể mà cơ quan, tổ chức, cá nhân cần? Do đó, đề nghị thiết kế lại Điều này theo hướng bên cạnh sử dụng tin dự báo, cảnh báo thiên tai khí tượng thủy văn mới nhất do hệ thống quốc gia dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn ban hành; cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng kết quả dự báo, cảnh báo thiên tai KTTV do hệ thống KTTV chuyên dùng mà mình đầu tư để phục vụ cho hoạt động phòng, chống thiên tai của chính mình.
4. Về quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ KTTV (Điều 40)
Khoản 1, Điểm b qui định cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ KTTV được khai thác thông tin, dữ liệu từ cơ sở dữ liệu khí tượng thủy văn quốc gia.
ĐB đề nghị sửa lại là:
b) Được khai thác miễn phí thông tin, dữ liệu từ cơ sở dữ liệu khí tượng thủy văn quốc gia trong các hoạt động phục vụ cộng đồng, không vì mục đích lợi nhuận; trường hợp để cung cấp dịch vụ thì phải thực hiện các nghĩa vụ về phí, lệ phí được qui định tại điểm c, khoản 2 điều này. Vì Trong hoạt động dịch vụ có thu thì cơ quan, tổ chức, cá nhân phải có trách nhiệm đóng góp lại cho NSNN thông qua phí, lệ phí để đảm bảo sự bình đẳng trong kinh doanh, cũng là để thể hiện trách nhiệm với nhà nước, tạo điều kiện cho các cơ quan sự nghiệp công lập về KTTV có thêm kinh phí thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của mình và nâng cấp máy móc, trang thiết bị công tác. Qui định như vậy cũng để bảo đảm tính rõ ràng, minh bạch của Luật.
5. Về những hành vi bị cấm (Điều 8):
ĐB đề nghị bổ sung cụm từ “không kịp thời” tại Khoản 11. Sau khi sửa sẽ là:
“11. Che giấu, không cung cấp hoặc cố ý cung cấp sai lệch, không đầy đủ, không kịp thời các thông tin, dữ liệu khí tượng thủy văn”. Vì việc cố ý cung cấp không kịp thời các thông tin, dữ liệu KTTV hoàn toàn có khả năng gây ra hậu quả, thiệt hại nặng nề do thiên tai mang lại, cần phải bổ sung vào điều cấm.
6. Về dự báo, cảnh báo KTTV của tổ chức, cá nhân (Điều 25)
Khoản 5, Điểm a về thẩm quyền cấp giấy phép của Bộ TN&MT, có qui định Bộ cấp giấy phép cho tổ chức, cá nhân thực hiện dự báo, cảnh báo KTTV trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi đặt trụ sở chính. Mục b qui định Chủ tịch UBND cấp tỉnh cấp giấy phép cho tổ chức, cá nhân thực hiện dự báo, cảnh báo KTTV trong phạm vi địa phương nơi đặt trụ sở chính. ĐB cho rằng có sự trùng lặp và đề nghị bỏ thẩm quyền của Bộ TN&MT với đối tượng này; chỉ để lại thẩm quyền cấp giấp phép cho tổ chức, cá nhân thực hiện dự báo, cảnh báo KTTV trên phạm vi từ 2 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trở lên, cho tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động dự báo, cảnh báo KTTV tại Việt Nam.
Xuân Ninh (VP Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh)
Liên kết website
Ý kiến ()