Tất cả chuyên mục
Thứ Bảy, 20/04/2024 18:30 (GMT +7)
Xây dựng chính quyền điện tử: Cơ hội và thách thức
Thứ 7, 01/12/2012 | 05:23:16 [GMT +7] A A
Cũng như các địa phương khác, bước vào quá trình nghiên cứu, xây dựng, vận hành chính quyền điện tử (CQĐT), tỉnh Quảng Ninh có nhiều thuận lợi, nhưng cũng gặp không ít khó khăn.
Người dân làm thủ tục hành chính ở bộ phận “một cửa” phường Hà Phong (TP Hạ Long). |
Cần phát huy thuận lợi
Có ba điểm thuận lợi cơ bản mà Quảng Ninh cần phát huy để đảm bảo quá trình xây dựng, vận hành CQĐT đạt hiệu quả cao. Một là, Đảng, Nhà nước đã và đang có những chính sách đẩy mạnh triển khai ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) và xây dựng CQĐT. Ngày 29-6-2006, Quốc hội đã thông qua Luật CNTT, văn bản pháp lý quan trọng, cụ thể hoá chủ trương của Đảng đã được nêu tại Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17-10-2000 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH. Ngày 10-4-2007, Nghị định số 64/2007/NĐ-CP về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước được ban hành. Năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành 2 quyết định quan trọng: QĐ số 1755/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về CNTT và truyền thông”; QĐ số 1605/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015” nhằm xác định chiến lược, nội dung phát triển CNTT của quốc gia, tăng cường hơn nữa ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước ở giai đoạn tiếp theo. Đặc biệt, ngày 16-1-2012, T.Ư Đảng ban hành Nghị quyết số 13 về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, trong đó xác định rõ: CNTT và truyền thông là “hạ tầng của hạ tầng” để phát triển KT-XH, coi thúc đẩy phát triển và ứng dụng CNTT là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Đây là những cơ sở quan trọng để tỉnh triển khai xây dựng CQĐT.
Thuận lợi thứ hai là có quyết tâm chính trị to lớn của lãnh đạo các cấp ở tỉnh trong việc xây dựng CQĐT. Ông Đỗ Cao Bảo, Chủ tịch Công ty FPT-IS nhấn mạnh: “Việc xây dựng CQĐT cho một tỉnh cần khoảng thời gian 5 năm, nhưng ở Quảng Ninh, do có quyết tâm rất cao của lãnh đạo tỉnh, nên đến cuối năm 2014 có thể hoàn thành”. Quyết tâm chính trị cao của lãnh đạo tỉnh được thể hiện rõ nét tại các nghị quyết của Tỉnh uỷ, HĐND tỉnh. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII xác định: Tăng cường tiềm lực KHCN phục vụ mục tiêu CNH, HĐH, nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý điều hành. Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 5-5-2012 của Tỉnh uỷ về phát triển KHCN giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 20/NQ-HĐND ngày 18-10-2011 của HĐND tỉnh; Thông báo số 638-TB/TU ngày 21-5-2012 của Thường trực Tỉnh uỷ về Đề án “Xây dựng CQĐT tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2012-2014” cũng đã thể hiện rõ quyết tâm này.
Thuận lợi thứ ba là tỉnh chủ động được nguồn ngân sách địa phương và huy động được các nguồn lực để xây dựng CQĐT. Với nhiều tiềm năng, thế mạnh, sự quyết tâm cao của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong tỉnh, hàng năm Quảng Ninh là một trong những địa phương đứng đầu cả nước về thu ngân sách. Trong Nghị quyết về phát triển KHCN, Tỉnh uỷ xác định ưu tiên bố trí từ 4 đến 5% tổng chi ngân sách thường xuyên hàng năm của tỉnh cho KHCN. Như vậy, hàng năm tỉnh có thể dành ra từ 150 đến 200 tỷ đồng cho nhiệm vụ xây dựng CQĐT.
Khắc phục khó khăn, thách thức
Bên cạnh những thuận lợi, Quảng Ninh cũng gặp phải những khó khăn, thách thức không nhỏ cần vượt qua để xây dựng CQĐT. Thứ nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao và ứng dụng CNTT ở tỉnh còn hạn chế. Để xây dựng thành công CQĐT, ngoài đội ngũ quản lý, vận hành trong cơ quan nhà nước thì nguồn nhân lực ứng dụng là rất quan trọng. Trong khi đó, nguồn nhân lực của tỉnh vẫn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo còn lớn (khoảng 50%). Trong khi đó, tỷ lệ sử dụng, khai thác các dịch vụ trực tuyến của người dân, doanh nghiệp nhiều hay không tương ứng với sự thành công của CQĐT.
Thứ hai là dù một vài tỉnh, thành phố đã triển khai xây dựng CQĐT và đã có một số thành công nhất định, tuy nhiên, đó mới chỉ là một vài kết quả ban đầu, chưa mang tính tổng thể. Mô hình, kiến trúc, cách thức triển khai CQĐT vẫn còn ở thời kỳ đầu, chưa thể khẳng định thành mô hình hay điển hình thành công để có thể làm mẫu căn cứ, rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện.
Thứ ba là về thủ tục hành chính. Ở tỉnh, Đề án 30 đang được triển khai giai đoạn 3, nhưng đến nay thủ tục hành chính vẫn chưa thực sự đồng bộ, vẫn còn rườm rà, trùng chéo, chưa quy định rõ để tạo được sự liên thông về thủ tục hành chính giữa các cơ quan, đơn vị. Cùng với đó, sức ỳ của bộ máy hành chính các cấp còn lớn; việc tuyên truyền để tổ chức, công dân biết, tìm hiểu, giao dịch còn hạn chế.
Thứ tư là về tiến độ thời gian để triển khai CQĐT. Trong thời gian không dài (từ nay đến 2014), với khối lượng công việc lớn, trên diện rộng và ở nhiều cấp, việc đảm bảo tiến độ triển khai cũng là một thách thức lớn trong việc tổ chức thực hiện Đề án.
Đỗ Ngọc Hà
Liên kết website
Ý kiến ()